Khái niệm lực lượng sản xuất hiện đại
Trong thời đại ngày nay, những thành tựu của khoa học – công nghệ đã góp phần quan trọng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất, góp phần làm hiện đại hóa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trên tất cả các yếu tố cấu thành của nó. Vì vậy, khi nghiên cứu về lực lượng sản xuất, người ta rất chú ý phân tích đến tính hiện đại của lực lượng sản xuất. Nhiều ý kiến đề cập đến phán đoán của C.Mác về vai trò của khoa học với tư cách là lực lượng sản xuất trực tiếp, coi đó là đặc trưng cơ bản của lực lượng sản xuất hiện đại. Tuy nhiên, khi phân tích sự phát triển của lực lượng sản xuất, mặc dù nhấn mạnh đến vai trò của khoa học nhưng C.Mác không xem nhẹ vai trò của nhân tố người lao động. C.Mác vẫn coi người lao động là nhân tố quyết định trong lực lượng sản xuất. Để hiểu rõ điều này, trước hết cần phân tích quan điểm của C.Mác về khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Theo quan điểm của C.Mác, sự phát triển của khoa học đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Bằng những nghiên cứu một cách khoa học, C.Mác đã đưa ra một phán đoán:
Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến (wissen knowledge) đã chuyển hóa đến mức độ nào đó thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của quá trình sống của xã hội đã phục tùng đến một mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ biến và đã được cải tạo đến mức độ nào không những dưới hình thức tri thức mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực tiếp, những cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực.
Theo luận điểm trên của C.Mác, tri thức khoa học đã làm cho tư bản cố định như: nhà xưởng, máy móc được dùng trong sản xuất chuyển hóa đến một mức độ nhất định nào đó thì trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nghĩa là, tri thức khoa học được ứng dụng, được vật hóa thành máy móc, thành công cụ sản xuất của con người và được người lao động sử dụng trong quá trình sản xuất. Do đó, nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Điều kiện để tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp được C.Mác khẳng định như sau:
Sự phát triển của hệ thống máy móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền đại công nghiệp đã đạt được một trình độ phát triển cao hơn và tất cả các môn khoa học đều được phục vụ tư bản, còn bản thân hệ thống máy móc hiện có thì có những nguồn lực to lớn. Như vậy, phát minh trở thành một nghề đặc biệt và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích.
Luận điểm trên của C.Mác cho thấy khoa học chỉ trở thành lực lượng sản xuất với điều kiện là khoa học phải tồn tại dưới dạng lao động được vật hóa thành máy móc. Điều đó cũng có nghĩa là khoa học tự bản thân nó không thể tạo ra bất kỳ tác động nào mà phải thông qua sự vận dụng và hoạt động thực tiễn của con người thì khoa học mới có thể phát huy được tác dụng của nó. Điều này đã được C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định lại khi bàn đến tư tưởng, lý luận nói chung: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng” và “Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn”. Trong bài Điếu văn đọc tại lễ an táng của C.Mác, khi đề cao vai trò của C.Mác trong việc phát hiện ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Đối với Mác, khoa học là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng” . Quan điểm trên thống nhất với nhận định của C.Mác về vai trò của khoa học trong sự phát triển của sản xuất vật chất và của xã hội.
Quan điểm của C.Mác về vai trò của khoa học và phán đoán khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp được hiểu ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, khoa học vốn là một hệ thống những tri thức được tích lũy trong quá trình lịch sử, đã được con người vận dụng vào hoạt động sản xuất vật chất, được vật hóa trong các thao tác lao động và đem lại những hiệu quả nhất định. Như vậy, từ chỗ là lực lượng sản xuất tiềm năng, khoa học đã từng bước tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Thứ hai, khoa học có sự gắn kết chặt chẽ với kỹ thuật, trở thành cơ sở lý thuyết cho các phương tiện kỹ thuật, công nghệ mà thông qua đó, khoa học được vật chất hóa trong các yếu tố vật thể của lực lượng sản xuất. Sự gắn kết chặt chẽ giữa khoa học với kỹ thuật, công nghệ là một xu thế tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại bởi khoa học muốn phát triển nhanh chóng cần phải có sự trợ giúp của công nghệ hiện đại; đồng thời, muốn sản xuất ra công nghệ mới đòi hỏi con người phải dựa trên những phát minh khoa học mới. Điều đó cũng chứng tỏ khoa học gắn bó chặt chẽ và là yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời đại ngày nay.
Thứ ba, gần đây, thời gian để lý thuyết khoa học đi vào thực tiễn sản xuất ngày càng được rút ngắn lại. Trong những thế kỷ trước, thời gian từ phòng thí nghiệm đến thực tế sản xuất thường rất lâu nhưng từ cuối thế kỷ XIX đến nay, nhờ sự phát triển không ngừng của khoa học hiện đại, quá trình trên đã được rút ngắn rất nhiều. Dựa trên việc phân tích sự phát triển của khoa học trong xã hội hiện đại, tác giả Vũ Đình Cự và Trần Xuân Sầm trong cuốn sách: “Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức” đã có thống kê cụ thể về thời gian đưa các phát minh vào ứng dụng như sau:
Bảng 1. Thời gian đưa các phát minh khoa học vào ứng dụng
Tên phát minh, sáng chế | Năm phát minh | Năm sản xuất | Thời gian |
Máy hơi nước | 1680 | 1780 | 100 năm |
Máy bay | 1897 | 1911 | 14 năm |
Tranzito | 1948 | 1953 | 5 năm |
Pin mặt trời | 1953 | 1955 | 2 năm |
Từ bảng thống kê trên, có thể nhận thấy trong những năm gần đây, thời gian đưa các phát minh từ những phòng thí nghiệm đến các nhà máy sản xuất được rút ngắn đi rất nhiều. Nhờ đó mà khoa học thâm nhập ngày càng nhanh vào quá trình sản xuất.
Thứ tư, khoa học được thâm nhập vào tất cả các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất. Nhờ có khoa học, con người ngày càng tạo ra được nhiều đối tượng lao động nhân tạo, khắc phục được hạn chế về thời gian sử dụng và một số đặc tính khác của đối tượng lao động tự nhiên; những đối tượng nhân tạo này cũng thân thiện với môi trường. Cũng nhờ có khoa học mà công cụ lao động ngày càng được cải tiến, sức lao động của con người được giải phóng. Cũng nhờ đó mà trình độ, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động không ngừng được nâng cao. Do đó, trong rất nhiều nhà máy, xí nghiệp, số lượng nhân lực khoa học tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất chiếm tỷ lệ ngày càng cao, vượt trội hơn hẳn so với số lượng lao động làm việc cơ bắp thông thường. Đội ngũ công nhân trí thức xuất hiện và có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Khoa học cũng đã thâm nhập vào các lĩnh vực khác, không chỉ có khoa học công nghệ – kỹ thuật (phần cứng) mà còn có những ngành khoa học quản lý, khoa học nhân văn… (phần mềm). Nhờ có khoa học, hoạt động của các nhà lãnh đạo, quản lý, điều hành sản xuất ngày càng có hiệu quả hơn, góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Như vậy, khoa học không phải là một lực lượng sản xuất độc lập, đứng bên ngoài con người mà khoa học chỉ có thể tạo ra những biến đổi trong quá trình sản xuất thông qua hoạt động của con người. Khoa học đã được thẩm thấu vào tất cả các khâu của quá trình sản xuất, góp phần cải tiến công cụ lao động, tạo ra những đối tượng lao động mới, những phương tiện sản xuất tiên tiến, góp phần nâng cao kỹ năng, tay nghề, trình độ cho người lao động. Do đó, có thể nói trong thời đại ngày nay, khoa học đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại.
Như vậy, có thể hiểu khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp nghĩa là khoa học tham gia vào quá trình sản xuất bằng việc tạo ra công nghệ, đề ra và xây dựng phương pháp tổ chức và quản lý để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả của sản xuất. Vì thế, khoa học chính là một trong những nhân tố cấu thành không thể thiếu của lực lượng sản xuất hiện đại. Khi phân tích lực lượng sản xuất của xã hội tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt đề cao vai trò của khoa học. Nền đại công nghiệp ra đời là kết quả tất yếu của cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra trên thế giới, bắt đầu từ nước Anh. Theo Ph.Ăngghen, “sở dĩ có cuộc cách mạng đó là do có sự phát minh ra máy hơi nước, các thứ máy kéo sợi, máy dệt và hàng loạt những thiết bị máy móc khác. Những máy móc đó làm thay đổi toàn bộ phương thức sản xuất tồn tại từ trước đến nay”. C.Mác còn khẳng định rằng trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi thời kỳ lịch sử có thể do nhiều yếu tố quyết định trong đó có một yếu tố rất quan trọng là “mức độ phát triển của khoa học và trình độ áp dụng của khoa học vào quá trình công nghệ” . Ngày nay, nhờ khoa học phát triển không ngừng mà tri thức xã hội phổ biến trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, rút ngắn đáng kể quá trình ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất. Nếu như trước đây, cần đến hàng chục năm hoặc vài chục năm để ứng dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất thì ngày nay, quá trình đó ngày càng được rút ngắn, thậm chí, với sự kết hợp của nhà khoa học và người sản xuất, người ta có thể vừa nghiên cứu, vừa ứng dụng.
Ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước công nghiệp phát triển do nhu cầu khách quan mà đã xuất hiện các “công viên khoa học”, “thành phố khoa học”, các “khu công nghệ cao”… nhằm tạo ra môi trường, điều kiện thuận lợi để khoa học, công nghệ và cơ sở sản xuất gắn kết chặt chẽ với nhau, tạo nên một “cơ thể” thống nhất. Chính ở đây có thể coi phòng thí nghiệm cũng chính là nhà máy, công ty, xí nghiệp; nhà khoa học đồng thời là người sản xuất kinh doanh. Tại đây, người ta có thể vừa nghiên cứu, thí nghiệm đồng thời sản xuất đại trà ra các sản phẩm và được lưu thông ngay trên thị trường; không phân biệt đâu là sản phẩm của phòng thí nghiệm, đâu là sản phẩm của cơ sở sản xuất. Chính đây là nơi hội tụ đủ điều kiện tốt nhất, thuận lợi nhất để “nhất thể hoá” quá trình nghiên cứu thực nghiệm khoa học, triển khai công nghệ và sản xuất. Nhờ thế mà các ý tưởng khoa học nhanh chóng trở thành công nghệ, tạo ra sản phẩm, thu hút lực lượng lao động có trình độ tri thức và công nghệ cao thông qua hoạt động quản lý hiện đại mà tăng cường lực lượng sản xuất.
Không thể phủ nhận, những thành tựu to lớn của khoa học – công nghệ hiện đại đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó cũng khiến cho những phán đoán của C.Mác về việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp càng trở nên đúng đắn. Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại gắn liền với sản phẩm điển hình là máy tính điện tử. Nhờ đó, công nghệ hiện đại đã có bước nhảy vọt làm thay đổi về mọi mặt của sản xuất vật chất và đời sống xã hội. Từ thời kỳ này, xuất hiện thuật ngữ công nghệ cao. Bên cạnh thuật ngữ công nghệ cao, người ta còn dùng các thuật ngữ công nghệ mới; công nghệ tiên tiến hay công nghệ hiện đại; trong đó, thuật ngữ công nghệ cao được sử dụng rộng rãi hơn cả.
Hệ thống công nghệ cao gồm 8 ngành công nghệ cao cơ bản là: Công nghệ thông tin (hay còn gọi là công nghệ thông tin và truyền thông); Công nghệ sinh học; Công nghệ vật liệu tiên tiến – công nghệ vật liệu nanô; Công nghệ năng lượng mới; Công nghệ bảo vệ môi trường; Công nghệ biển và hải dương; Công nghệ hàng không – vũ trụ và Công nghệ quản lý. Ngoài ra còn có hàng loạt các công nghệ chuyên ngành. Hệ thống công nghệ cao chính là cốt lõi của lực lượng sản xuất mới trong nền sản xuất hiện đại.
Công nghệ cao ra đời dựa trên thành tựu khoa học mới nhất với hàm lượng tri thức, hàm lượng khoa học và sáng tạo cao nhất đã xóa nhòa dần ranh giới giữa “khoa học” và “công nghệ”, đã rút ngắn quá trình từ phát minh khoa học đến việc áp dụng những phát minh đó vào trong sản xuất và đời sống. Chu trình “Khoa học – Công nghệ – Sản xuất” được gắn kết chặt chẽ nên đã chuyển nhanh chóng tri thức khoa học vào đời sống xã hội.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu lực lượng sản xuất hiện đại là khái niệm dùng để chỉ sự kết hợp giữa người lao động ở trình độ cao với tư liệu sản xuất tiên tiến, dựa trên hệ thống công nghệ hiện đại để tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, có tính bền vững và thân thiện với môi trường sinh thái.
Đặc điểm của lực lượng sản xuất hiện đại
Lực lượng sản xuất hiện đại có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, trong lực lượng sản xuất hiện đại, khoa học được thẩm thấu vào tất cả các yếu tố cấu thành của nó, làm thay đổi đáng kể trình độ phát triển của lực lượng sản xuất so với những thời đại trước kia.
Nếu trước đây, C.Mác đã từng chỉ ra rằng tất cả công cụ lao động (như máy móc, đường sắt, điện báo, máy sợi con rọc di động …) đều là sản phẩm lao động của con người, do “bàn tay con người tạo ra” nên đều là “sức mạnh vật hoá của tri thức”…, C.Mác “coi khoa học trước hết như cái đòn bẩy mạnh mẽ của lịch sử, như một lực lượng cách mạng” thì đến trình độ phát triển của nền sản xuất hiện nay, tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. So với lực lượng sản xuất trước đây, lực lượng sản xuất hiện đại có một sự khác biệt lớn ở sự gắn kết các khâu, các giai đoạn của quá trình sản xuất. Nếu như trước đây, các máy móc, nhà xưởng hầu như tách rời với phòng thí nghiệm, với các cơ quan nghiên cứu khoa học thì ngày nay rất khó phân biệt hệ thống thiết bị khoa học, các phòng thí nghiệm với hệ thống máy móc của dây chuyền sản xuất và các xí nghiệp sản xuất công nghệ cao. Thậm chí, các máy móc khoa học tối tân nhất cũng được đưa ngay vào ứng dụng thực tế gần như ở dạng nguyên mẫu. Từ thời gian tạo ra sản phẩm ở phòng thí nghiệm đến thời gian tạo ra sản phẩm mang ra thị trường được rút ngắn chưa từng thấy. Doanh nghiệp, trường đại học và viện nghiên cứu tích hợp với nhau ngày càng chặt chẽ. Hơn nữa, ngày nay khoa học trong lực lượng sản xuất hiện đại không chỉ là khoa học – công nghệ mà còn cả khoa học xã hội, những tri thức về kinh tế học, khoa học quản lý, quy trình sản xuất, tài chính – ngân hàng, quảng cáo – tiếp thị, tâm lý học, mỹ học, ngôn ngữ học … ngày càng trở thành yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất hiện đại. Như vậy, khoa học đã không còn là những tri thức đơn thuần mà được thẩm thấu vào tất cả các khâu của quá trình sản xuất vật chất. Đây là đặc điểm nổi bật dễ dàng nhận thấy của lực lượng sản xuất hiện đại.
C.Mác luôn nhấn mạnh đến tính động, thay đổi không ngừng của công cụ lao động và coi đó là một trong những thước đo về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: “Các tư liệu lao động (công cụ lao động) không những là cái thước đo sự phát triển sức lao động của con người mà còn là một chỉ tiêu của những quan hệ xã hội trong đó lao động được tiến hành”. Sở dĩ công cụ lao động là biểu hiện rõ nét nhất trình độ của lực lượng sản xuất vì bản thân các công cụ lao động là sự kết tinh những tri thức của con người đạt được trong mỗi thời kỳ nhất định. Tính hiện đại của công cụ lao động cũng có tính lịch sử – cụ thể. Trước đây, khi nói về vai trò của công cụ lao động, C.Mác nhấn mạnh đến công cụ lao động cơ khí. Ngày nay, tính hiện đại của công cụ lao động được thể hiện ở máy móc hiện đại với tính tự động hóa rất cao.
Ngoài công cụ lao động, C.Mác và Ph.Ăngghen còn nhấn mạnh đến những điều kiện vật chất cần thiết của quá trình lao động. Sự phát triển của nó cũng là biểu hiện cho trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của các phương tiện giao thông, đường sắt…bởi nó đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, bên cạnh những phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt; các phương tiện giao thông đường không, đường biển cũng góp phần quan trọng trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại nhất là việc đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hóa, thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa sản xuất giữa các quốc gia trên thế giới. Phương tiện lao động hiện đại đã rút ngắn các quy trình sản xuất – trao đổi, giảm đáng kể chi phí sản xuất.
Ngoài ra, trong lực lượng sản xuất hiện đại, khoa học – công nghệ còn làm thay xuất hiện những đối tượng lao động mới, có tính năng vượt trội. Ngoài các đối tượng lao động cũ, trong lực lượng sản xuất hiện đại sẽ xuất hiện ngày càng nhiều những đối tượng lao động nhân tạo có khả năng đem lại hiệu quả kinh tế cao, ít gây tổn hại đến môi trường cũng là một trong những đặc điểm quan trọng của lực lượng sản xuất hiện đại. Những đối tượng lao động nhân tạo được tạo ra bởi công nghệ vật liệu tiên tiến.
Trong nền sản xuất hiện đại, mỗi đơn vị sản phẩm có hàm lượng tri thức ngày càng tăng lên, hàm lượng vật liệu và năng lượng đầu vào ngày càng giảm đi đáng kể. Do đó, tác động của khí thải trong sản xuất năng lượng sẽ ít đi, làm giảm nguy cơ gây biến đổi khí hậu toàn cầu. Hơn nữa, việc sử dụng công nghệ cao làm cho lượng chất thải của sản xuất giảm mạnh, làm giảm tốc độ cạn kiệt tài nguyên, hơn nữa còn tiến tới triệt để tái chế chất thải, hướng tới nền sản xuất ít hoặc không có chất thải. Việc áp dụng các thành tựu mới của công nghệ sinh học sẽ hạn chế dùng phân bón hoá học và thuốc trừ sâu hoá chất, do đó làm giảm ô nhiễm nguồn nước và suy thoái đất nông nghiệp, bảo tồn được đa dạng sinh học, giữ được cân bằng các hệ sinh thái …. Có thể nói, để phát triển lực lượng sản xuất trước đây, người lao động chủ yếu chỉ biết sử dụng, tiêu dùng những đối tượng lao động sẵn có trong tự nhiên nên các đối tượng lao động đều có xu hướng cạn kiệt dần nhưng lực lượng sản xuất hiện đại lại hướng đến sự tái tạo khi tạo ra “giới tự nhiên thứ hai” thay thế dần cho “giới tự nhiên thứ nhất”. Bằng việc sử dụng những vật liệu mới bằng công nghệ sinh học, công nghệ nano, công nghệ năng lượng…, lực lượng sản xuất hiện đại đã tạo ra những sản phẩm tiêu hao ngày càng ít năng lượng tự nhiên, ít gây tổn hại đến môi trường sinh thái, góp phần quan trọng trong việc phát triển bền vững. Đây chính là điểm khác biệt nổi bật của lực lượng sản xuất hiện đại so với lực lượng sản xuất trong những giai đoạn trước kia.
Thứ hai, trong lực lượng sản xuất hiện đại; trình độ, tri thức trở thành yếu tố quan trọng nhất của người lao động.
C.Mác đã chỉ rõ: “Lực lượng sản xuất là kết quả của nghị lực thực tiễn của con người” . Điều đó có nghĩa là lực lượng sản xuất chính là sản phẩm hoạt động của con người ở mỗi thời kỳ lịch sử. Trong tiến trình phát triển của lịch sử, trình độ, năng lực, kỹ năng của người lao động không ngừng được thay đổi và nâng cao. Vì thế, trình độ của người lao động ở xã hội sau bao giờ cũng cao hơn ở xã hội trước. Điều đó đã được Ph.Ăngghen khẳng định: “Người vô sản thuộc về xã hội có trình độ phát triển cao hơn, và bản thân họ cũng ở trình độ cao hơn người nô lệ”. Do đó, nếu trình độ của người lao động ở một chế độ xã hội kém thì chứng tỏ trình độ của lực lượng sản xuất ở chế độ đó cũng thấp kém. Vì vậy, để nhận thức được đúng đắn trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu phải căn cứ vào trình độ lao động, sản xuất của người lao động.
Trình độ của người lao động hiện đại được thể hiện qua tri thức, chất xám của họ kết tinh trong các sản phẩm lao động. Trong lực lượng sản xuất hiện đại, tri thức, chất xám trở thành yếu tố quan trọng nhất của người lao động. Không thể phủ nhận được trong bất cứ thời đại nào, khi tham gia vào quá trình sản xuất vật chất, người lao động phải có cả sức mạnh cơ bắp và sức mạnh trí tuệ. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, yêu cầu của những yếu tố này cũng khác nhau. Nếu trong giai đoạn sản xuất thủ công, sức mạnh cơ bắp, kinh nghiệm của người lao động là yếu tố quan trọng nhất; trong giai đoạn sản xuất cơ khí, động cơ, máy móc là yếu tố quyết định thì trong trong nền sản xuất hiện đại, toàn bộ quá trình sản xuất biểu hiện ra không phải như một quá trình phụ thuộc vào sức khỏe, thể chất hay kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động mà với tư cách là sự ứng dụng những thành tựu của khoa học – công nghệ vào sản xuất. Sự ứng dụng đó có được là do tri thức, trí tuệ của người lao động mang lại. Do đó, việc tạo ra của cải vật chất ngày càng trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động đã hao phí mà phụ thuộc vào trình độ ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất. Sự thay đổi đó là xu thế khách quan, mang tính tiến bộ và ngày càng mở rộng. Nó làm cho tài nguyên thiên nhiên mặc dù vẫn là những thứ không thể thiếu trong nền sản xuất xã hội, nhưng không còn đóng vai trò quan trọng nhất. Mức đóng góp của tri thức và kỹ thuật, công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế ngày càng lớn. Do vai trò và vị trí của tri thức trong nhân tố người lao động ngày càng cao nên cơ cấu đầu tư để phát triển lực lượng sản xuất có những thay đổi đáng kể. Nếu như trước đây, người ta ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất như nhà xưởng, máy móc, trang thiết bị kỹ thuật thì ngày nay, trong nền sản xuất hiện đại, tri thức, trí tuệ, kỹ năng của người lao động được đầu tư bởi những yếu tố đó được thẩm thấu vào tất cả các quy trình sản xuất, vào việc ứng dụng, cải tiến công cụ lao động… Như vậy, trong lực lượng sản xuất hiện đại, tuy nguồn vốn và lao động vẫn là những yếu tố cơ bản không thể thiếu nhưng của cải tạo ra dựa vào tri thức nhiều hơn là dựa vào tài nguyên thiên nhiên và sức lao động cơ bắp. Tri thức, trí tuệ là yếu tố chiếm ưu thế nổi bật, đánh dấu sự khác biệt về chất của người lao động hiện đại với người lao động trước kia. Chính sự gia tăng đáng kể của yếu tố tri thức, trí tuệ của người lao động đã làm thay đổi mạnh mẽ trình độ của lực lượng sản xuất hiện đại. Vì vậy, việc gia tăng tri thức của người lao động càng nhanh và có hiệu quả bao nhiêu thì lực lượng sản xuất càng phát triển bấy nhiêu.
Ngay từ thế kỷ XIX, C.Mác đã chỉ rõ:
Bồi dưỡng tất cả những phẩm chất của con người mang tính xã hội và sự sản xuất ra con người, với tư cách là con người, có những phẩm chất và những mối liên hệ và, do đó, có những nhu cầu hết sức phong phú, sự sản xuất ra con người với tư cách là sản phẩm mang tính chất chính thể nhất và vạn năng nhất của xã hội (bởi vì muốn sử dụng được nhiều vật dụng, con người phải có năng lực sử dụng chúng nghĩa là con người phải trở thành con người hết sức có văn hoá), đó cũng là những điều kiện của một nền sản xuất dựa trên tư bản.
Nhờ có tri thức của con người, lực lượng sản xuất hiện đại không chỉ có mặt ở trong các ngành sản xuất mới xuất hiện mà nó còn lan toả, cải tạo, đổi mới các ngành sản xuất cũ của nền kinh tế. Do đó, lực lượng sản xuất hiện đại tất yếu sẽ thay thế lực lượng sản xuất cũ qua sự phủ định biện chứng.
Thứ ba, trong lực lượng sản xuất hiện đại có sự phân công lao động xã hội ngày càng hợp lý và khoa học hơn.
Thực tiễn cho thấy, sự thay đổi của công cụ lao động dẫn đến sự thay đổi của của phân công lao động xã hội. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng khi lực lượng sản xuất ở trình độ thủ công thì nó mang tính cá nhân, còn khi đã đạt đến trình độ cơ khí hóa, nó mang tính xã hội. Tính chất cá nhân của lực lượng sản xuất theo Ph.Ăngghen tương ứng với những giai đoạn trước của xã hội tư bản với nền sản xuất manh mún, mang tính tự cấp, tự túc. Ph.Ăngghen viết:
Trước nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là trong thời trung cổ, khắp nơi đều có nền sản xuất nhỏ mà cơ sở của nó là chế độ sở hữu tư nhân của những người lao động đối với những tư liệu sản xuất của họ; nông nghiệp của những tiểu nông, tự do hay nông nô, thủ công nghiệp ở thành thị. Những tư liệu lao động – đất đai, nông cụ, dụng cụ thủ công – là những tư liệu lao động của cá nhân, do đó nhất định chúng phải nhỏ bé, tí hon, có hạn. Cũng chính vì thế mà thường thường chúng thuộc về bản thân người sản xuất .
Như vậy, tư liệu sản xuất cá nhân gắn với nền sản xuất nhỏ, ứng với những giai đoạn mà lực lượng sản xuất còn ở trình độ thủ công với quy mô nhỏ và phân tán. Theo Ph.Ăngghen, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã biến những những tư liệu sản xuất nhỏ, phân tán thành những tư liệu sản xuất hùng mạnh, biến những tư liệu sản xuất do cá nhân thành những tư liệu sản xuất xã hội:
Thay cho guồng quay sợi, khung cửi dệt tay, búa thợ rèn là máy se sợi, máy dệt, búa chạy bằng hơi nước, thay cho xưởng thợ cá thể là công xưởng đòi hỏi lao động chung của hàng trăm, hàng nghìn công nhân. Cũng như tư liệu sản xuất, bản thân sự sản xuất cũng biến đổi từ chỗ là một loạt động tác phân tán thành một loạt động tác xã hội và sản phẩm cũng từ sản phẩm cá nhân biến thành sản phẩm xã hội.
Ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, phân công lao động đang thay đổi theo hướng tăng lao động trí óc, giảm lao động chân tay, mà điển hình là sự xuất hiện một dạng lao động mới – lao động công nghệ cao. Đây là loại lao động liên quan trực tiếp đến việc chế tạo, phát minh ra các loại máy móc, phương tiện kỹ thuật có sử dụng công nghệ hiện đại. Đòi hỏi đối với lao động công nghệ cao là có khả năng chế tạo, phát minh ra các loại máy móc, phương tiện kỹ thuật hiện đại để áp dụng vào sản xuất vật chất, không ngừng nâng cao năng suất lao động và tạo ra những sản phẩm đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững. Như vậy, phân công lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại không còn phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên, ngành nghề được đào tạo, nguồn lao động dồi dào hay lượng tư bản lớn như trước đây, mà ngày càng dựa nhiều hơn vào lực lượng lao động có năng lực sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức, trong đó lao động công nghệ cao là một loại lao động trực tiếp sản xuất ra tri thức.
Sự phân công lao động tất yếu dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng ngày càng hợp lý hơn trong nền sản xuất hiện đại. Nếu như trước đây, khi lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp, chưa phát triển, số lượng “công nhân cổ xanh” (là những công nhân chủ yếu sử dụng sức lực cơ bắp và thực hiện một số thao tác vận hành máy móc khi lao động) chiếm đa số thì ngày nay, khi lực lượng sản xuất sản xuất đang ngày càng phát triển, số lượng nhân lực khoa học tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất được gọi là “công nhân cổ trắng” chiếm tỷ lệ ngày càng cao, vượt trội hơn hẳn “công nhân cổ xanh”. Những “công nhân cổ trắng” đó còn có tên gọi khác là công nhân tri thức. Thông qua họ cùng với những công cụ sản xuất hiện đại (vật hóa của tri thức), tri thức khoa học đã trực tiếp đi vào dòng sản xuất. Vì vậy, ở kết quả đầu ra của lực lượng sản xuất trước đây; hàm lượng tri thức, chất xám của người lao động tương đối thấp thì ngày nay, hàm lượng tri thức của người lao động kết tinh trong các sản phẩm ngày một gia tăng. Do đó, sản phẩm của lực lượng sản xuất hiện đại thường có giá trị gia tăng rất lớn.
Như vậy, sự phân công lao động xã hội trong lực lượng sản xuất hiện đại biến đổi theo hướng tăng đội ngũ lao động chất xám. Vai trò của người điều hành sản xuất ngày càng trở nên hết sức quan trọng, quyết định sự thành bại của các công ty, các tổ chức kinh tế bởi lẽ với những đòi hỏi khắt khe về năng lực và kỹ năng lao động, nền sản xuất hiện đại cũng sẽ loại trừ những cá nhân không đáp ứng được những yêu cầu đó. Sự phân công lao động xã hội tất yếu dẫn đến xu hướng lao động biến đổi theo hướng ngày càng mang tính xã hội hoá sâu sắc. Lao động được xã hội hoá thể hiện ở việc tổ chức sản xuất trực tiếp giữa các đơn vị sản xuất diễn ra trên một quy mô lớn với sự phân công lao động vừa đảm bảo khả năng chuyên môn hoá, vừa có khả năng phi chuyên môn hoá một cách rộng rãi.
Sự biến đổi nội dung và tính chất của lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại cũng khiến cho lao động của con người đang tiến dần đến sự sáng tạo. Chúng ta biết rằng, trong các nền sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, lao động là một sự bắt buộc, bị thúc bách bởi những nhu cầu bên ngoài lao động và trở thành cái mà C.Mác gọi là “lao động bị tha hoá”. Ngày nay, với sự thay đổi nội dung và tính chất của lao động, chúng ta có thể hy vọng rằng, lao động không còn là một thứ nô dịch, lao động đang dần trở về đúng với bản chất đích thực của nó, tức là lao động đã thực sự trở thành một nhu cầu, là hoạt động tự do và sáng tạo của con người. Khoa học – công nghệ đã và đang tạo tiền đề cho việc thay đổi vị trí, chức năng của con người trong quá trình sản xuất. Với sự phát triển của khoa học – công nghệ, nhiều chức năng mà con người trực tiếp đảm nhận trong chu trình sản xuất trước đây được chuyển giao dần cho máy móc. Điều này đã giúp con người có thể giảm thiểu thời gian cho các hoạt động vật chất và dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động tinh thần, sáng tạo và hưởng thụ. Con người không còn bị cột chặt vào guồng máy sản xuất như trong nền kinh tế công nghiệp, mà họ được tự do hơn trong các hoạt động của mình. Khoa học – công nghệ đang góp phần tạo ra một hệ thống “khoa học – kỹ thuật – sản xuất ” thống nhất. Với hệ thống này, lao động ngày càng mang nhiều nội dung khoa học, trí tuệ và sáng tạo.
Như vậy, tính chất của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ở trình độ thủ công, lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân; khi lực lượng sản xuất đạt đến trình độ cơ khí hóa, máy móc ra đời, công nghiệp phát triển thì nó mang tính xã hội. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì tính chất xã hội hóa ngày càng cao.Do đó, trong lực lượng sản xuất hiện đại có sự phân công lao động mang tính xã hội, sự đa dạng hóa ngành nghề cùng với sự xuất hiện những ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Thứ tư, lực lượng sản xuất hiện đại có tính toàn cầu hoá.
Nhờ sự phát triển mạnh của công nghệ thông tin, nhất là mạng Internet, khoa học nói riêng và tri thức nói chung được phổ biến nhanh chóng, hầu như tức thời (online) với nhiều sự kiện khoa học trên toàn thế giới. Dòng tri thức, dòng công nghệ cùng với dòng vốn được lưu thông với tốc độ chưa từng có trên toàn thế giới. Người ta có thể sản xuất từng bộ phận cấu thành của một sản phẩm ở nhiều nơi trên thế giới, sau đó lắp ráp và lưu thông ở các nước khác nhau nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy, đầu ra của lực lượng sản xuất hiện đại không còn là sản phẩm riêng của lao động ở một quốc gia nữa mà là sản phẩm mang tính toàn cầu. Do đó, lực lượng sản xuất hiện đại trở thành một yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa. Đây là đặc điểm mới chỉ riêng có ở lực lượng sản xuất hiện đại mà lực lượng sản xuất ở các giai đoạn trước kia chưa có hoặc mới ở trong một phạm vi hẹp.
Như vậy, lực lượng sản xuất hiện đại có năm đặc điểm cơ bản như: trong lực lượng sản xuất hiện đại, khoa học được thẩm thấu vào tất cả các yếu tố cấu thành của nó, làm thay đổi đáng kể trình độ phát triển của lực lượng sản xuất so với những thời đại trước kia; trình độ, tri thức trở thành yếu tố quan trọng nhất của người lao động; trong lực lượng sản xuất hiện đại có sự phân công lao động xã hội hợp lý và khoa học; có sự thay đổi nhanh chóng công nghệ sản xuất làm xuất hiện ngày càng nhiều những đối tượng lao động mới, góp phần thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa của lực lượng sản xuất hiện đại. Những đặc điểm đó chính là thước đo đánh giá trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời đại ngày nay; đồng thời nó đánh dấu sự khác biệt về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại so với những giai đoạn lịch sử trước đó.
Vai trò của người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, người lao động là yếu tố quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định sự phát triển lực lượng sản xuất bởi vì:
Thứ nhất, người lao động là một “động vật biết chế tạo công cụ” vì ngoài việc sử dụng những công cụ lao động có sẵn, người lao động đã làm cho một vật “do tự nhiên cung cấp” trở thành một khí quan hoạt động của con người. Nhờ đó, người lao động đã tăng thêm sức mạnh của các khí quan vốn có của mình lên gấp bội. Trong quá trình sản xuất vật chất, người lao động không chỉ tạo ra các công cụ lao động mà còn luôn biết cải tạo công cụ lao động, làm cho khả năng chinh phục tự nhiên ngày càng lớn hơn. Trong buổi bình minh của lịch sử, lực lượng sản xuất còn thấp kém, người lao động dựa chủ yếu vào những đối tượng lao động do tự nhiên cung cấp. Khi nền sản xuất ngày càng phát triển, nhận thức của người lao động ngày càng tăng lên, công cụ lao động ngày càng được cải tiến, đối tượng lao động ngày càng được mở rộng. Điều đó chứng tỏ người lao động là chủ thể sáng tạo và là chủ thể sử dụng mọi yếu tố của quá trình sản xuất. C.Mác khẳng định: “Trong tất cả những công cụ sản xuất thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng” . Do đó, nếu không có người lao động sẽ không thể có quá trình sản xuất vật chất.
Thứ hai, người lao động với tri thức và ý chí của mình biết sử dụng và kết hợp các yếu tố cấu thành của tư liệu sản xuất như đối tượng lao động, công cụ lao động, phương tiện lao động; hiện thực hóa vai trò và tác động của những yếu tố đó để tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm cải tạo giới tự nhiên một cách có hiệu quả nhất. Hơn nữa, tất cả những yếu tố trên chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ phát huy được vai trò của mình khi được được người lao động sử dụng trong quá trình cải biến giới tự nhiên. Điều này đã được C.Mác khẳng định:
Một cái máy không dùng vào quá trình lao động là một cái máy vô ích. Ngoài ra, nó còn bị hư hỏng do sức mạnh hủy hoại của sự trao đổi chất của tự nhiên. Sắt thì han rỉ, gỗ thì bị mục. Sợi không dùng để dệt hoặc đan thì chỉ là một số bông bị hư hỏng. Lao động sống phải nắm lấy những vật đó, cải tử hoàn sinh cho chúng, biến chúng từ những giá trị sử dụng thành chỉ có tính chất khả năng thành những giá trị sử dụng và tác động.
Thứ ba, trong khi các yếu tố của tư liệu sản xuất đều hữu hạn và thường bị hao mòn nhanh theo thời gian thì người lao động, ngoài yếu tố thể lực bị hao mòn chậm thì các kỹ năng lao động, trình độ tay nghề… luôn có khả năng tự đổi mới, tự nâng cao thông qua quá trình tự học hỏi, bồi dưỡng, trau dồi tri thức không ngừng để có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của quá trình sản xuất. V.I. Lênin đã khẳng định: “Trong khi vật chất có thể bị phá hủy hoàn toàn thì các kỹ năng của con người như công nghệ, bí quyết tổ chức và nghị lực làm việc sẽ còn mãi” . Khẳng định trên đúng đắn vì suy cho cùng, hầu hết các tư liệu sản xuất chủ yếu (trừ những đối tượng sẵn có trong tự nhiên) chỉ là sản phẩm lao động của con người, do con người tạo ra và không ngừng đổi mới, cải tiến. Về thực chất, tư liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ lao động chỉ là sự phản ánh trình độ của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên.
Trong lực lượng sản xuất hiện đại, công nghệ thông tin là một trong những ngành đã thâm nhập vào hầu hết tất cả các lĩnh vực của sản xuất và trong đời sống của con người. Máy tính điện tử được sử dụng phổ biến và đưa con người vào kỷ nguyên tự động hóa tổng hợp, vào nền văn minh tin học. Ngoài ra, sự phát triển của ngành công nghệ tự động hóa đã cho ra đời người máy. Người máy đã thay thế không chỉ những công việc nặng nhọc, những hoạt động cơ bắp mà còn có thể thay thế cho cả những hoạt động tinh vi, phức tạp của con người. Do đó, người ta thường dùng những thuật ngữ như “trí tuệ nhân tạo”, “người máy thông minh” để chỉ sự phát triển không ngừng của khoa học – công nghệ hiện đại và khả năng sáng tạo của con người trong sản xuất. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là khoa học – công nghệ hiện đại trở thành yếu tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ đó người lao động trở thành yếu tố thứ yếu, đứng bên ngoài quá trình sản xuất. Về thực chất, khoa học – công nghệ trước hết là sản phẩm của quá trình nhận thức, sản phẩm của sự phát triển trí tuệ của con người. Có thể nói, do yêu cầu của sản xuất mà con người đã sáng tạo và quyết định khuynh hướng, tốc độ phát triển của khoa học – công nghệ, đồng thời quyết định việc sử dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất theo mục đích của mình. Thực tế cho thấy, kỹ thuật, công nghệ hiện đại với tư cách là phần vật chất trong các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất dù năng động và cách mạng đến mấy cũng chỉ là sản phẩm do bàn tay và khối óc của con người làm ra và chịu sự điều khiển, giám sát của con người. Do đó, dù trí tuệ nhân tạo dẫu được mệnh danh là tiên tiến đến đâu cũng chỉ là sản phẩm của con người, hoạt động của nó phụ thuộc vào những chương trình mà con người đã lập ra, đã cài đặt vào máy tính điện tử và người máy công nghiệp. Vì vậy, khoa học – công nghệ là của con người, gắn liền với con người, phụ thuộc vào con người và phải thông qua hoạt động của con người mới có thể được vật hóa vào quá trình sản xuất. Nếu không xuất phát từ con người, được tiến hành bởi con người và không hướng về mục đích phục vụ con người, không có quá trình sản xuất nào có đủ lý do để tồn tại và phát triển. Do vậy, trong bất cứ thời đại nào, kể cả thời đại của khoa học – công nghệ hiện đại, người lao động vẫn là nhân tố đóng vai trò quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại là những người tham gia vào quá trình sản xuất vật chất với trình độ cao; có khả năng kết hợp với công nghệ tiên tiến để tạo ra những sản phẩm có hàm lượng trí tuệ lớn, có tính bền vững và thân thiện với môi trường.
Có thể nhận thấy, bản thân khái niệm người lao động trong lực lượng sản xuất cũng có sự biến đổi qua mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Nó gắn liền với sự biến đổi về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Nếu như trước đây, khi lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ thấp, nói đến người lao động, người ta chủ yếu chỉ nói tới những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, đặc biệt là phát triển của khoa học – kỹ thuật rồi đến khoa học – công nghệ, không chỉ có những người trực tiếp sản xuất mới là những người lao động. Ngoài họ ra, còn có một bộ phận ngày càng tăng lên những người trực tiếp quản lý quá trình sản xuất; những kỹ sư, những nhà công nghệ tạo ra những sản phẩm khoa học, công nghệ để ứng dụng vào quá trình sản xuất. Điều này đã được C.Mác dự báo khi phân tích quá trình phát triển của nền đại công nghiệp ở các nước tư bản phát triển: “Toàn bộ quá trình sản xuất biểu hiện ra không phải như một quá trình phụ thuộc vào tài nghệ trực tiếp của người công nhân mà với tư cách là sự ứng dụng khoa học trong lĩnh vực công nghệ”, “do đó, đến một giai đoạn nào đó, guồng máy có thể thay thế công nhân. Lao động được biểu hiện ra không phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá trình sản xuất mà chủ yếu là một lao động mà trong đó con người, trái lại, là người kiểm soát và điều tiết bản thân quá trình sản xuất”; và “thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản xuất, người công nhân lại đứng bên cạnh quá trình sản xuất ấy” .
Sự phát triển của sản xuất xã hội luôn diễn ra sự phủ định. Trước kia, người sản xuất và người quản lý là một, song cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, sự tách rời giữa người sản xuất và người quản lý ngày một gia tăng, sự khác biệt phát triển thành sự đối lập gay gắt trong chế độ tư hữu. Giờ đây, chính sự phát triển cao của lực lượng sản xuất ở trình độ trí tuệ hoá cao đã và đang diễn ra sự xích lại gần nhau giữa người lao động sản xuất và nhà quản lý. Trong nền sản xuất hiện đại, ở không ít trường hợp, người sản xuất và người quản lý hội tụ trong một cá thể mà ở đó, mặt quản lý ngày càng có ưu thế hơn mặt lao động trong việc tạo ra sản phẩm. Như vậy, trong lực lượng sản xuất hiện đại, người lao động bao gồm cả người tham gia sản xuất trực tiếp và cả những người tham gia vào quá trình quản lý quá trình sản xuất ấy và những nhà khoa học – công nghệ tạo ra những sản phẩm nhằm hiện đại hóa quá trình sản xuất ấy.
Trong bất cứ thời đại nào, người lao động cũng đóng vai trò quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất nhưng sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế nằm ở chỗ, trong thời đại nào, yếu tố nào thuộc về người lao động trong lực lượng sản xuất giữ vai trò quan trọng hơn các yếu tố khác. Bởi vậy, sự thay đổi vai trò của các yếu tố cấu thành nhân tố người lao động chính là tiêu chí đánh giá sự khác biệt của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại với lực lượng sản xuất trước kia.
Theo quan điểm của C.Mác, khi tham gia vào quá trình sản xuất vật chất, người lao động phải có cùng một lúc cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần.
Sức mạnh vật chất được thể hiện qua năng lực về thể chất như sức khỏe, thể trạng của người lao động. Điều đó không chỉ được tạo nên bởi đời sống vật chất, điều kiện làm việc của người lao động mà nó còn phụ thuộc vào đặc điểm về lứa tuổi, giới tính của họ. Sức mạnh thể chất là điều kiện cần thiết của quá trình lao động mà con người cần phải có để tác động vào giới tự nhiên bằng những công cụ lao động để tạo ra của cải vật chất.
Sức mạnh tinh thần được thể hiện qua năng lực về trí tuệ, phẩm chất đạo đức như kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm trong công việc của người lao động… Đó là sức mạnh thể hiện tính loài của con người khác với con vật khi tác động vào giới tự nhiên. Nhờ có sức mạnh về tinh thần, trí tuệ mà hoạt động sản xuất vật chất của con người mới là hoạt động có mục đích, có ý thức.
Mặc dù cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần đều là những yếu tố thuộc về người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất nhưng vị trí, vai trò của những yếu tố này không phải là cái nhất thành bất biến mà trong mỗi thời đại kinh tế khác nhau, chúng luôn có sự thay đổi. Trong thời kỳ tiền sử, do nhận thức của con người còn nhiều hạn chế nên để tạo ra của cải vật chất, người lao động chủ yếu sử dụng sức mạnh cơ bắp để tác động vào giới tự nhiên. Tuy nhiên, khi công cụ lao động đã phát triển, máy móc cơ khí ra đời, yếu tố kỹ năng, kinh nghiệm trong lao động lại giữ vai trò chủ đạo. Nó giúp những người lao động vận hành các máy móc một các thành thạo, thuần thục. Do năng lực trí tuệ của người lao động không ngừng được nâng cao nên phần giá trị do lao động trí tuệ của họ tạo ra trong quá trình sản xuất và được kết tinh ở sản phẩm ngày càng tăng. Từ chỗ chiếm một tỷ trọng rất không đáng kể ở các thời kỳ tiền cách mạng công nghiệp, ngày nay, ở các nước phát triển, đối với một số loại sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, hàm lượng giá trị do trí tuệ tạo ra và được kết tinh trong sản phẩm có thể đạt tới 80 – 90% tổng giá trị sản phẩm. Đối với các loại sản phẩm đó, nguyên vật liệu, năng lượng, lao động cơ bắp chỉ tạo thành từ 10% – 20% giá trị sản phẩm. Vì thế, giá trị gia tăng trong mỗi sản phẩm được tạo ra ngày càng lớn. Nó không phụ thuộc vào các yếu tố đầu vào là nguyên vật liệu để sản xuất ra nó mà phụ thuộc vào hàm lượng tri thức, chất xám của người lao động kết tinh vào trong đó. Vì vậy, trong nền sản xuất hiện đại, có những sản phẩm tuy trọng lượng nhỏ nhưng lại có giá trị kinh tế lớn và tinh vi hơn gấp nhiều lần những sản phẩm có trọng lượng lớn trong nền sản xuất trước kia. Điều này cũng đã được C.Mác khẳng định như sau:
Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động đã chi phí hơn là vào sức mạnh của những tác nhân được khởi động trong thời gian lao động, và bản thân những tác nhân ấy, đến lượt chúng (hiệu quả to lớn của chúng) tuyệt đối không tương ứng với thời gian lao động trực tiếp cần thiết để sản xuất ra chúng, mà đúng ra chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất.
Sự thay đổi vị trí, vai trò của các yếu tố cấu thành nhân tố người lao động cũng gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi thời kỳ lịch sử. Trong cuốn sách “Phát triển kinh tế tri thức gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, các tác giả đã chỉ ra những điểm khác biệt cơ bản giữa kinh tế tri thức và kinh tế công nghiệp theo những chỉ tiêu so sánh dưới đây:
Bảng 2. So sánh sự khác nhau giữa kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức
Qua bảng so sánh trên, có thể nhận thấy, sự gia tăng của yếu tố tri thức trong nhân tố người lao động và sự tăng lên không ngừng của lực lượng lao động trí óc như đội ngũ công nhân tri thức, các nhà quản lý… trong số những người lao động nói chung tham gia vào quá trình sản xuất cũng chính là dấu hiệu đặc trưng cho sự khác biệt của nền kinh tế tri thức so với các nền kinh tế trước đó trong lịch sử. Sự gia tăng này cũng chính là một trong những đặc điểm quan trọng của lực lượng sản xuất hiện đại trong thời đại ngày nay.
Những yêu cầu cơ bản của người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại
Để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, người lao động với tính cách là nhân tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất vật chất cần có những yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại cần có thể lực tốt, sức khỏe dồi dào, dẻo dai để có thể chịu áp lực cao, cường độ lao động lớn trong công việc, thích ứng với sự thay đổi liên tục về nghề nghiệp và có khả năng thu thập, xử lý thông tin một cách nhanh nhạy.
Trong bất cứ thời đại nào, sức khỏe, thể lực là yếu tố cần thiết để người lao động tham gia vào quá trình sản xuất một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, yêu cầu về thể lực, sức khỏe của người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất lại không giống nhau. Thời kỳ lực lượng sản xuất chưa phát triển, sức lực của người lao động được sử dụng trong việc dùng những công cụ lao động thô sơ tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất. Thời kỳ sản xuất cơ khí, sức lực, cơ bắp của con người được sử dụng trong việc vận hành các loại máy móc; khi đó, máy móc đã thay thế cho sức lực của con người ở một số khâu của quá trình sản xuất. Trong lực lượng sản xuất hiện đại, yếu tố thể lực của người lao động cũng rất quan trọng nhưng nó không phải là thể lực cơ bắp thuần túy với khả năng lao động tay chân dẻo dai mà là sức khỏe về tâm lực với khả năng tư duy, khả năng sáng tạo lớn. Khác với người lao động trong lực lượng sản xuất truyền thống, yếu tố sức khỏe, thể lực của người lao động không chỉ dùng để vận hành các loại máy móc, sử dụng các công cụ lao động mà còn để có khả năng đáp ứng với những dây chuyền sản xuất cường độ cao; có khả năng nhanh nhạy trong việc thu thập và xử lý thông tin; thích ứng với sự thay đổi liên tục về nghề nghiệp, về môi trường làm việc cũng như những rủi ro không thể tránh khỏi của nền sản xuất hiện đại trong quá trình hội nhập. Trong nền sản xuất hiện đại, thể lực, sức khỏe của người lao động vẫn là yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất vật chất vì người lao động hiện nay vẫn rất cần có một thể lực tốt, sức khỏe dẻo dai để có thể tập trung làm việc liên tục trong một thời gian dài mà hoạt động lao động vẫn đảm bảo tính chính xác và hiệu quả cao.
Để có được thể lực tốt, sức khỏe dồi dào, người lao động cần có một môi trường sinh hoạt tốt với điều kiện vật chất đầy đủ, điều kiện lao động và làm việc an toàn, có chế độ bảo hộ lao động để tránh những tai nạn, rủi ro đáng tiếc trong quá trình lao động. Theo C. Mác, trước đây, trong xã hội tư bản, để tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư sản đã ra sức bóc lột sức lao động của người công nhân, không chú ý đến quá trình tái sản xuất sức lao động nên đã đẩy những người công nhân vào tình trạng bần cùng thường xuyên.
Ngay cả trong trạng thái xã hội có lợi nhất cho công nhân, hậu quả tất yếu đối với công nhân cũng là tình trạng lao động cật lực, tình trạng bị chết yểu, tình trạng bị hạ xuống đóng vai một cái máy, một nô lệ của tư bản mà sự tích lũy của nó là cái nguy hiểm cho công nhân, tình trạng có một cuộc cạnh tranh mới, tình trạng một bộ phận công nhân không tránh khỏi chết đói hoặc đi ăn xin.
Thứ hai, người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại cần có tri thức, trí tuệ dồi dào; có khả năng lao động sáng tạo; chủ động và tích cực ứng dụng những thành tựu của khoa học – công nghệ hiện đại vào sản xuất.
Một trong những yêu cầu quan trọng nhất của người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại là phải có tri thức, trí tuệ nổi trội hơn so với người lao động trong các giai đoạn trước đây. Ngày nay, tri thức, trí tuệ của người lao động không phải chỉ biết sử dụng các loại máy móc mà còn chế tạo ra các loại máy móc mới với công nghệ hiện đại theo yêu cầu ngày càng cao của sản xuất; không ngừng thay đổi mẫu mã sản phẩm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường; tạo ra những đối tượng lao động mới có tính bền vững và thân thiện với môi trường sinh thái; có khả năng ứng dụng những thành tựu của khoa học – công nghệ hiện đại vào sản xuất; nắm bắt và xử lý thông tin nhanh nhạy… Những yếu tố thuộc về tri thức, trí tuệ của người lao động sẽ được kết tinh trong các sản phẩm hàng hóa, làm cho các sản phẩm đó có hàm lượng trí tuệ cao, có giá trị gia tăng lớn. Ngoài ra, người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại cũng cần có khả năng thích ứng nhanh với những biến đổi của điều kiện sản xuất vật chất.
Thích ứng chính là sự biến đổi của chủ thể để phù hợp với điều kiện mới, môi trường mới. Một trong những đặc trưng của nền sản xuất hiện đại là sự thay đổi liên tục, sự tác động nhiều chiều của các yếu tố bên trong và bên ngoài đến sự phát triển lực lượng sản xuất. Bởi vậy, để thực hiện quá trình sản xuất vật chất và thúc đẩy xã hội phát triển, khả năng thích ứng chính là yêu cầu có tính thời đại, là một phẩm chất không thể thiếu của người lao động hiện đại. Khả năng thích ứng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu, chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất; dễ dàng đáp ứng với những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng khắt khe của nghề nghiệp; không trở nên lạc hậu, bị động với những biến đổi không ngừng của đời sống xã hội. Khả năng thích ứng sẽ giúp người lao động bắt nhịp được với nền sản xuất hiện đại.
Để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, tri thức của người lao động cần trở thành yếu tố chủ yếu của quá trình sản xuất. Sự khác biệt của tri thức với tính cách là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất với các yếu tố mang tính truyền thống (tài nguyên thiên nhiên, vốn…) được thể hiện ở chỗ: Tri thức của người lao động không bị hao mòn, bị tổn thất khi sử dụng; khi chuyển giao tri thức cho người khác, người sở hữu tri thức không bị mất đi tri thức của mình; khi tri thức được chuyển giao cho nhiều người thì vốn tri thức được nhân lên gấp bội với chi phí không đáng kể; tiếp nhận vốn tri thức lại không dễ dàng như tiếp nhận vốn dưới dạng tiền tệ, việc chuyển giao, tiếp nhận vốn tri thức phải thông qua giáo dục và đào tạo. Bởi vậy, trong nền sản xuất hiện đại, giáo dục và đào tạo trở thành ngành sản xuất quan trọng nhất – sản xuất vốn tri thức. Vì lẽ đó, người lao động không phải là người sản xuất đơn thuần mà là người lao động tri thức. Họ thực sự được làm chủ quá trình sản xuất; hợp tác với nhau bình đẳng trong quá trình sản xuất và kinh doanh, trong quá trình tạo ra và phân phối của cải vật chất.
Thứ ba, ngoài thể lực và trí lực, người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại cần có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có đạo đức và văn hóa nghề nghiệp, có ý thức trách nhiệm với việc bảo vệ môi trường sinh thái.
Trong nền sản xuất hiện đại, mỗi khâu, mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất đều được gắn kết với nhau. Thậm chí, các trung tâm nghiên cứu, các nhà máy sản xuất và các nhà quản lý có sự tích hợp, gắn bó với nhau một cách chặt chẽ nên người lao động cần có ý thức tổ chức kỷ luật, lao động và sản xuất một cách có trách nhiệm. Ý thức trách nhiệm của người lao động hiện đại không chỉ là tôn trọng giờ giấc, kỷ luật lao động như trước kia mà còn thể hiện ở việc tôn trọng bản quyền sáng chế, đề cao chất lượng sản phẩm, không vì lợi nhuận mà sản xuất ra những sản phẩm kém chất lượng, gây tổn hại cho sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng… Hơn nữa, lực lượng sản xuất hiện đại có tính bền vững, thân thiện với môi trường sinh thái nên người lao động phải có đạo đức nghề nghiệp trong việc tạo ra các sản phẩm thân thiện với môi trường sinh thái. Trước đây, vì mục tiêu phát triển nhanh, để tạo ra ngày càng nhiều của cải, con người đã dùng chính những thành tựu của khoa học – công nghệ để tác động một cách thô bạo vào giới tự nhiên, tàn phá nghiêm trọng môi trường sinh thái. Vì vậy, hầu hết các nước đều phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái. Do đó, ô nhiễm môi trường đã trở thành một trong những vấn đề mang tính toàn cầu. Nhằm khắc phục tình trạng đó, các quốc gia trên thế giới đều hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, phát triển kinh tế xanh. Để đạt được mục tiêu đó, đạo đức nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường sinh thái của người lao động là một trong những yếu tố quan trọng đóng vai trò quyết định. Có thể nói, chưa bao giờ, đạo đức kinh doanh, đạo đức môi trường lại trở thành một trong những yêu cầu bức thiết của người lao động như hiện nay.
Như vậy, trong thời đại ngày nay, người lao động không chỉ cần có thể lực tốt mà cần có tri thức phong phú, có ý thức tổ chức kỷ luật, đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái, có khả năng thích ứng tốt đối với những biến đổi nhanh chóng của quá trình sản xuất vật chất. Đây là những yếu tố đảm bảo cho người lao động phát triển một cách toàn diện cả về thể lực, trí tuệ, ý thức đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại. Đó cũng là những yêu cầu cơ bản của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại. Trong các yêu cầu đó, yêu cầu về trí tuệ, tri thức của người lao động được đặt lên hàng đầu để tạo nên những khác biệt về chất của lực lượng sản xuất hiện đại so với lực lượng sản xuất trong những giai đoạn trước đây.
Các yếu tố tác động đến người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại tại Việt Nam
Có rất nhiều yếu tố tác động đến người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại như : điều kiện địa lý tự nhiên, truyền thống văn hóa lịch sử, điều kiện phát triển kinh tế – xã hội nhưng trong giới hạn phạm vi của luận án, tác giả chỉ tập trung phân tích những yếu tố cơ bản tác động đến sự phát triển của người lao động quá trình xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay, hay nói cách khác là những yếu tố cơ bản tác động đến sự phát triển của người lao động hiện đại ở Việt Nam.
1. Tác động của giáo dục – đào tạo đến người lao động trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam
Một trong những đặc điểm nổi bật của lực lượng sản xuất hiện đại là yếu tố tri thức, trí tuệ của người lao động được kết tinh ngày càng nhiều trong mỗi sản phẩm, tạo ra giá trị gia tăng lớn và làm nên tính cạnh tranh của sản xuất vật chất. Do đó, giáo dục – đào tạo trở thành một trong những yếu tố quan trọng tác động đến sự phát triển của người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại.
Giáo dục – đào tạo có tác động trực tiếp đến việc nâng cao dân trí, trình độ, tay nghề, kỹ năng cho người lao động. Để trở thành người lao động hiện đại thì không thể không trải qua quá trình đào tạo. Giáo dục – đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng góp phần quan trọng trong việc trang bị cho người lao động những tri thức về nghề nghiệp, kỹ năng trong lao động sản xuất, kỹ năng về khoa học – công nghệ để họ có thể vận hành được những máy móc hiện đại. Ngoài những tri thức truyền thống đó, giáo dục – đào tạo hiện nay còn trang bị cho người lao động những tri thức về thị trường, hội nhập, về khả năng nắm bắt và xử lý thông tin, những tri thức về bản quyền và sở hữu trí tuệ; về an toàn lao động, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái để tạo nên những phẩm chất hiện đại của người lao động trong lực lượng sản xuất thời đại ngày nay. Có thể nói, giáo dục – đào tạo hiện nay góp phần tái sản xuất ra năng lực hoạt động thực tiễn cho người lao động hiện đại bằng cách gia tăng ngày càng nhiều yếu tố tri thức, chất xám cho người lao động. Vì vậy, giáo dục – đào tạo cũng tạo ra những thay đổi về chất của người lao động hiện đại so với trước đây.
Nếu như trước đây, giáo dục – đào tạo chỉ tạo ra yếu tố đầu vào của sản xuất vật chất là người lao động với những tri thức, kỹ năng cơ bản thì ngày nay, do yêu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại; người lao động không chỉ cần được đào tạo ban đầu mà cần được đào tạo liên tục. Vì vậy, trong nền sản xuất hiện đại, ngoài việc tiếp nhận quá trình đào tạo từ trường lớp, người lao động còn được đào tạo từ các trường dạy nghề đặc thù của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh. Đó là quá trình đào tạo lại, đào tạo bổ sung dựa theo đặc điểm nghề nghiệp, công việc.
Trong nền sản xuất hiện đại, giáo dục – đào tạo có vai trò rất quan trọng, trở thành một yếu tố không thể thiếu trong việc nâng cao trình độ, tay nghề, ý thức tổ chức kỷ luật… của người lao động. Do đó, việc những người lao động đã qua đào tạo, nhất là được đào tạo cơ bản, theo đúng nhu cầu của xã hội cũng chính là lợi thế cạnh tranh của người lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất vật chất. Những người lao động đã qua đào tạo đào tạo thường có nhiều cơ hội việc làm, thu nhập cao, có khả năng nắm bắt và xử lý thông tin nhanh, có thể thích nghi với sự thay đổi liên tục của thị trường lao động… Giáo dục – đào tạo cũng giúp cho người lao động khắc phục được sự mất cân đối giữa công nghệ hiện đại với trình độ của người lao động còn hạn chế. Do đó, có thể khẳng định giáo dục – đào tạo giúp người lao động tự nâng cao được giá trị của mình, tự thích nghi được với những thay đổi của nền sản xuất hiện đại, khiến mình không bị đứng ngoài quá trình sản xuất và tiếp tục trở thành chủ thể, đóng vai trò quyết định chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất vật chất.
Như vậy, giáo dục – đào tạo có tác động trực tiếp đến việc thay đổi chất lượng của người lao động hiện đại. Do đó, nó cũng tác động đến việc thay đổi cơ cấu của người lao động trong lực lượng sản xuất. Nếu như trước đây, khi lực lượng phát triển ở trình độ thấp, lao động cơ bắp, thủ công chiếm ưu thế. Trong một doanh nghiệp, tỷ lệ công nhân cổ xanh chiếm đại đa số thì ngày nay, tỷ lệ công nhân cổ xanh đang giảm dần, tỷ lệ công nhân cổ trắng – công nhân tri thức đang ngày một tăng lên. Đó là xu hướng trí thức hóa công nhân đang diễn ra bắt nhịp với xu thế phát triển của thời đại. Xu hướng này cũng phản ánh tính thời đại của người lao động trong lực lượng sản xuất hiện nay.
2. Tác động của môi trường xã hội đến đến người lao động trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam
Người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại không chỉ là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất mà còn là chủ thể của xã hội. Do đó, môi trường xã hội cũng có tác động rất lớn đến sự phát triển của người lao động trong thời đại ngày nay.
Môi trường xã hội là điều kiện làm việc, sinh hoạt, ăn ở; là những chế độ, chính sách tác động hàng ngày đến công việc, cuộc sống của người lao động, giúp họ có thêm động lực, phát huy được tối đa năng lực thực tiễn của mình trong quá trình sản xuất vật chất.
Nói đến môi trường xã hội tác động đến người lao động hiện đại, trước hết phải nói đến điều kiện làm việc. Người lao động hiện đại, nhất là người công nhân cần được làm việc trong môi trường hiện đại với công cụ lao động là những máy móc tiên tiến, phương tiện lao động hiện đại, được sử dụng các đối tượng lao động được làm bằng các vật liệu tiên tiến, ít gây tổn hại đến môi trường sinh thái. Những tư liệu sản xuất hiện đại sẽ giúp cho người lao động tạo ra được những sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, có tính năng vượt trội, kết tinh được nhiều tri thức, chất xám của người lao động. Ngoài ra, điều kiện làm việc an toàn có tác động rất lớn đến việc bảo vệ sức khỏe, thể lực cho người lao động hiện đại, hạn chế tối đa những tai nạn rủi ro, bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Điều đó tác động trực tiếp đến việc nâng cao thể lực, sức khỏe cho người lao động, tạo ra tâm lý yên tâm trong sản xuất.
Các chính sách xã hội như chính sách tiền lương, chính sách bảo hiểm xã hội hợp lý là một trong những động lực quan trọng trong việc phát triển người lao động hiện đại. Tiền lương không chỉ đảm bảo cuộc sống vật chất của người lao động mà còn tạo thành một động lực để giúp họ chủ động, tích cực làm việc. Tiền lương chính là lợi ích thiết yếu của người lao động. Đây là một khâu nhạy cảm nhất vì xét đến cùng, mọi hoạt động của con người, kể cả hoạt động sản xuất vật chất đều bắt nguồn từ lợi ích. Ngoài ra, các chính sách về bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, chính sách hỗ trợ thất nghiệp cho người lao động cũng phù hợp với xu thế thời đại vì trong nền sản xuất hiện đại, người lao động cần được chăm sóc toàn diện, lâu dài, cần được hỗ trợ trước những thay đổi liên tục về nghề nghiệp, công việc, môi trường làm việc. Ngoài ra, các chính sách về nhà ở, về môi trường sinh hoạt văn hóa tinh thần cũng tác động rất lớn đến người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại. Đó là những chính sách tạo động lực quan trọng cho người lao động, làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần, gia tăng tinh thần trách nhiệm và sự gắn bó với công việc cho người lao động, hạn chế những áp lực trong lao động.
Bên cạnh những chính sách hướng đến các nhu cầu trực tiếp, hàng ngày, các chính sách về pháp luật cũng có tác động đáng kể đến người lao động hiện đại. Người lao động hiện đại cần được trang bị những tri thức pháp luật cần thiết về lao động, quyền hạn và trách nhiệm trong lao động, kỷ luật lao động; được các tổ chức về lao động giúp đỡ, tạo điều kiện để họ nâng cao được ý thức chính trị, ý thức pháp luật của mình; được bảo vệ khi bị mất quyền lợi; được giúp đỡ khi xảy ra tranh chấp về lao động. Đó là những yếu tố góp phần tạo ra những lợi thế nổi bật của người lao động hiện đại so với người lao động trước kia. Họ không chỉ cần được phát triển về thể lực, sức khỏe mà còn được được phát triển về tri thức, ý thức pháp luật, tâm thế chính trị của mình trong nền sản xuất hiện đại.
Một trong những đặc điểm của người lao động hiện đại là tính sáng tạo và khả năng ứng dụng những thành tựu của khoa học – công nghệ hiện đại để tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng lớn. Môi trường xã hội có tác động đáng kể đến việc phát huy phẩm chất này của người lao động hiện đại. Nếu các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh có những chính sách hợp lý, điều kiện làm việc và chính sách đãi ngộ tốt sẽ kích thích tính sáng tạo, tinh thần tự giác của người lao động; khiến người lao động được tự do sáng tạo theo khả năng của mình, biến quá trình lao động là quá trình sáng tạo và cống hiến chứ không phải là quá trình lao động bị cưỡng bức, bị trói buộc bởi những quy tắc cứng nhắc. Ở một số nước tiên tiến trên thế giới, để thu hút nguồn lao động có trình độ tay nghề cao, họ đã có những chính sách đãi ngộ tốt, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động được làm việc, quan tâm đến cả lợi ích vật chất và tinh thần cho người lao động. Do đó, các quốc gia đó không chỉ thu hút được nguồn lao động tại chỗ mà còn thu hút được nguồn lao động tinh hoa từ nhiều nước khác, tạo nên những lợi thế cạnh tranh về lao động. Đó chính là những nước có nền sản xuất hiện đại, với lực lượng sản xuất ở trình độ cao.
3. Tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại đến người lao động trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam
Trong lịch sử nhân loại, đã từng có những cuộc cách mạng công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng và phát triển kinh tế – xã hội của con người nói chung.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất kéo dài từ cuối thế kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19, đánh dấu bằng sự ra đời của động cơ hơi nước, sau đó là động cơ đốt trong, mở rộng sử dụng nhiên liệu than đá, xây dựng các tuyến đường sắt, mở ra kỷ nguyên sản xuất cơ khí và phát triển giao thương..
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ 19 kéo dài tới đầu thế kỷ 20, với sự ra đời của máy phát điện, đèn điện, động cơ điện, mở rộng việc sử dụng điện năng trong sản xuất, mở ra kỷ nguyên sản xuất hàng loạt.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu vào thập niên 1960. Đặc điểm của cuộc cách mạng này là lần đầu tiên con người đã sáng tạo ra một loại máy có thể thay thế một phần quan trọng của lao động trí óc – đó là máy tính (chứ không như các loại máy cơ khí và điện khí chỉ thay thế lao động cơ bắp). Sự ra đời của chất bán dẫn đã dẫn tới việc sáng chế ra các siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990).
Trên cơ sở phát triển mạnh mẽ và toàn diện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, đặc biệt là các công nghệ số với phần cứng máy tính, phần mềm và hệ thống mạng trở nên ngày càng phổ biến, được tích hợp cả về tính năng lẫn phạm vi ứng dụng, từ đó làm biến đổi sâu sắc đời sống xã hội cũng như nền kinh tế toàn cầu. Đó cũng là cơ sở ra đời của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (FIR) vào giữa thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21.
So sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư phát triển với tốc độ ở cấp số nhân chứ không phải cấp số cộng. Hơn nữa, nó đang làm biến đổi mọi nền công nghiệp ở mọi quốc gia. Bề rộng và chiều sâu của những thay đổi này tạo nên sự biến đổi của toàn bộ các hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là khoa học – công nghệ sẽ tạo ra năng suất vượt bậc, chất lượng và hiệu quả của sản phẩm, dịch vụ tăng; chi phí thương mại giảm sẽ làm tăng doanh thu toàn cầu, thúc đẩy tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, nâng cao tính tiện ích cho cuộc sống cá nhân.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động mạnh mẽ đến sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức – “thông minh”. Các thành tựu mới của khoa học – công nghệ được ứng dụng để tối ưu hóa quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng và quản lý, quản trị… Từ góc độ cơ cấu ngành kinh tế, cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm “mờ dần” tính chất giữa công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Từ góc độ tiêu dùng, người dân được hưởng lợi nhờ tiếp cận được với nhiều sản phẩm và dịch vụ mới có chất lượng với chi phí thấp hơn.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tác động to lớn về kinh tế, xã hội và môi trường ở tất cả các cấp – toàn cầu, khu vực và từng quốc gia. Cuộc cách mạng này cũng có tác động to lớn đến phát triển lực lượng sản xuất hiện đại nói chung và phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại nói riêng. Với việc tăng cường tự động hóa và ứng dụng số hóa trong quá trình sản xuất, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông ngày càng mất dần lợi thế; sản xuất chuyển dịch dần sang những nước phát triển, nhiều lao động có kỹ năng và chuyên môn cao. Kinh tế thế giới bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào động lực công nghệ và đổi mới sáng tạo thay cho tăng trưởng chủ yếu dựa vào các yếu tố đầu vào truyền thống. Điều này cũng đặt ra một thách thức nếu người lao động không có trình độ chuyên môn, không có kỹ năng lao động, không có ý thức tự đổi mới, phát huy tinh thần tích cực, sáng tạo thì tất yếu sẽ trở nên lạc hậu, không bắt nhịp được với yêu cầu của nền sản xuất hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại cũng đặt ra yêu cầu nếu các quốc gia không ưu tiên phát triển nhân tố người lao động theo hướng chuyên sâu tất yếu sẽ không thể tạo ra những lợi thế có tính cạnh tranh. Do đó, khoảng cách giữa những người lao động giản đơn, phổ thông với người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật ngày càng được nới rộng; khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia cũng khó có thể được thu hẹp.
4. Tác động của hợp tác quốc tế đến người lao động trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam
Vì lực lượng sản xuất hiện đại có tính toàn cầu nên người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại cũng có tính toàn cầu. Do đó, hợp tác quốc tế về lao động trở thành yếu tố tác động trực tiếp đến tính hiện đại của người lao động hiện nay.
Hợp tác quốc tế về lao động là quá trình liên kết, hợp tác trên phạm vi khu vực và thế giới về việc đào tạo, sử dụng lao động. Đây là một xu hướng tất yếu trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay. Hợp tác quốc tế về lao động tác động đến việc tạo ra một đội ngũ những người lao động trong lực lượng sản xuất có những phẩm chất tiên tiến, có khả năng thích ứng với nhiều doanh nghiệp, nhiều cơ sở sản xuất ở các quốc gia khác nhau. Có thể nói, hợp tác quốc tế về đào tạo lao động sẽ góp phần tạo ra những thay đổi về chất cho lao động trong lực lượng sản xuất. Ngoài ra, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kiểm định, đánh giá chất lượng theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế cũng thúc đẩy việc nâng cao chất lượng lao động đã qua đào tạo theo tiêu chuẩn mới, có khả năng thích nghi với những thị trường lao động khắt khe.
Ngoài hợp tác quốc tế về đào tạo lao động còn có hợp tác quốc tế về sử dụng lao động. Trong lực lượng sản xuất hiện đại, người lao động không bị bó hẹp trong phạm vi một cơ sở sản xuất, của một quốc gia mà có thể tham gia vào thị trường lao động ở nhiều nước trên thế giới. Với các nước có trình độ phát triển lực lượng sản xuất còn thấp, việc hợp tác quốc tế về sử dụng lao động sẽ cho phép tiếp nhận, sử dụng đội ngũ chuyên gia, những người lao động có trình độ cao, có khả năng sử dụng những công nghệ tiên tiến để chuyển giao khoa học – công nghệ trong sản xuất. Từ đó, họ được đội ngũ chuyên gia này đào tạo để nâng cao trình độ, tay nghề. Ngoài ra, chính bản thân các nước này cũng có thể xuất khẩu sang các nước phát triển đội ngũ công nhân lành nghề, đã qua đào tạo để tạo ra nguồn thu nhập cao, kim ngạch xuất khẩu lớn. Xuất khẩu lao động sẽ tạo đà để các nước có thể hợp tác trong phát triển lực lượng sản xuất, chuyển giao khoa học – công nghệ.
Ngoài ra, xuất khẩu lao động ra nước ngoài sẽ mở ra cơ hội sử dụng số lao động có trình độ cao nhưng chưa được sử dụng hoặc chưa được sử dụng một cách hợp lý vào việc sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ tại nước khác, mang lại thu nhập cho người lao động. Có thể nói, xuất khẩu lao động cũng góp phần tác động đến sự phân công lao động quốc tế một cách hợp lý hơn. Theo quy luật đào thải khắt khe của thị trường lao động quốc tế, những lao động đã qua đào tạo, có trình độ cao có thêm nhiều cơ hội việc làm, thu nhập cao; ngược lại, những lao động phổ thông, ở trình độ thấp dù được xuất khẩu lao động cũng chỉ có thể làm những công việc giản đơn, có nhiều nguy cơ bị sa thải. Do đó, những nước có nền kinh tế phát triển sẽ tạo ra lực hút mạnh để thu hút lao động ở các nước có nền kinh tế phát triển kém hơn.
Để có thể ra nước ngoài làm việc, người lao động phải có kỹ năng nghề nghiệp và trình độ ngoại ngữ nhất định theo yêu cầu của chủ sử dụng. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi lao động muốn ra nước ngoài làm việc đều có thể đạt được các yêu cầu của nhà tuyển dụng. Vì vậy, phải tổ chức huấn luyện và đào tạo lại cho người lao động. Để thực hiện việc này có hiệu quả, Chính phủ phải đầu tư về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên và các điều kiện khác đảm bảo cho việc đào tạo và đào tạo lại người lao động. Điều này sẽ tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngắn hạn và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại trong dài hạn. Trong ngắn hạn, di chuyển lao động ra làm việc ở nước ngoài sẽ là một trong các con đường vừa giải quyết việc làm cho số lao động thất nghiệp, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư theo chiều sâu, nâng cao sức cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập. Trong dài hạn, trình độ người lao động đi làm việc ở nước ngoài được nâng cao nhờ được đào tạo và đào tạo lại trong thời gian làm việc ở nước ngoài. Chính người lao động đi làm việc ở nước ngoài sẽ là động lực của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vì đây là nguồn lao động có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư theo chiều sâu. Bên cạnh đó, nếu được làm việc trong môi trường công nghiệp hiện đại, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, trình độ tay nghề và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động cũng ngày càng được nâng cao. Ngoài ra, hợp tác quốc tế về lao động cũng góp phần đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất. Trong quá trình làm việc, người lao động trực tiếp sử dụng sử dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ. Theo quy luật nhận thức, người lao động từ bắt chước để làm theo, sau đó là cải tiến và cuối cùng là sáng tạo. Kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ixraen cho thấy, những người lao động đi làm việc ở nước ngoài, sau khi về nước, họ mang những tri thức đã tích luỹ được áp dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Chính lực lượng lao động này đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình đưa công nghệ mới vào sản xuất. Điều này góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng sử dụng khoa học – công nghệ tiên tiến.
Như vậy, có bốn yếu tố cơ bản tác động đến phát triển người lao động trong xây
dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay. Đó là giáo dục – đào tạo, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, môi trường xã hội phù hợp và công tác hợp tác quốc tế về đào tạo và sử dụng lao động. Những yếu tố này ở những mức độ khác nhau đã và đang tác động đến tính hiện đại của người lao động trong lực lượng sản xuất hiện nay, góp phần gia tăng cả chất và lượng cho người lao động, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
(Nguồn: Lê Thị Chiên, Luận án tiến sĩ triết học, 2017)