Trang chủ Lịch sử Lịch sử Việt Nam từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX

Lịch sử Việt Nam từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX

by Ngo Thinh
Published: Last Updated on 1,4K views

Việt Nam từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX.

1. Tình hình Đàng Ngoài

a. Cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến Đàng Ngoài

Bước sang thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Đàng Ngoài lâm vào khủng hoảng.

– Kinh tế: ngày càng suy sụp, sản xuất đình trệ. Từ cuối thế kỷ XVII, lợi dụng sự kiểm soát lỏng lẻo của nhà nước trung ương, quan lại đua nhau nhận hối lộ, địa chủ cường hào mặc sức hoành hành, chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Lợi dụng phép “bình lệ” của phủ chúa, chúng bắt nhân dân phải chịu hết mọi phú dịch, đóng tiền nuôi lính khiến người nông dân phải bán ruộng, chịu cảnh “cày thuê cuốc mướn” hoặc đi tha phương cầu thực.

Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp ngày càng suy sụp, hạn hán lũ lụt thường xuyên xảy ra. Dân nghèo không đủ khả năng mua sắm hàng hóa đã ảnh hưởng đến sự phát triển của công thương nghiệp. Các đô thị không còn phồn vinh như trước, các phường thủ công hoạt động kém hiệu quả, các thương nhân nước ngoài hầu như vắng bóng (chỉ còn thương nhân Trung Quốc).

– Sự sa đọa của các quan lại: Đội ngũ quan lại ngày càng suy thoái về đạo đức. Đồng tiền chi phối tất cả. Tình trạng này càng trở nên nghiêm trọng hơn khi nhà Lê – Trịnh quyết định thực hiện chế độ “mua quan, bán tước”. Theo lệ chung, cứ nộp 500 – 2.500 quan thì được chức Tri phủ, 500 – 2.000 quan thì được chức Tri huyện… Được nhiều ruộng, nhiều tiền, vua quan chỉ lo ăn chơi xa xỉ, xây dựng cung điện, dinh thự mà không chăm lo đến cuộc sống của nhân dân. Tình trạng đó đã làm gia tăng mâu thuẫn, cuộc khủng hoảng chính trị bắt đầu diễn ra ở Đàng Ngoài.

* Xã hội: Đời sống nhân dân ngày càng khổ cực. Phần lớn ruộng đất tập trung trong tay địa chủ. Người nông dân phải đi làm thuê cho chủ, phải chịu cảnh sưu cao, thuế nặng. Bên cạnh đó, người nông dân còn phải chịu biết bao mất mát, đau thương do thuế khóa nặng nề; do thiên tai, lũ lụt gây ra. Nông dân phải bỏ làng đi phiêu tán khắp nơi, chết chóc, bệnh tật luôn luôn đe dọa. Trong hoàn cảnh đó, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhỏ đã nổ ra.

b. Khởi nghĩa nông dân

Vào những năm 30 của thế kỷ XVIII, khởi nghĩa nông dân nổ ra rầm rộ ở khắp nơi. Mở đầu là khởi nghĩa của Nguyễn Dương Hưng ở Tam Đảo (Vĩnh Phúc) vào năm 1737. Tiếp đó là hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ nổ ra ở Bắc Giang, Tuyên Quang, Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Thái Nguyên… Trong đó nổi lên một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như: khởi nghĩa Nguyễn Danh Phương (Vĩnh Phúc), khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu (Hải Dương), khởi nghĩa Hoàng Công Chất (Sơn Nam), khởi nghĩa Lê Duy Mật (Thanh Hóa).

Nhìn chung, phong trào nông dân Đàng Ngoài tuy diễn ra sôi nổi, rộng khắp, kéo dài và lôi kéo được đông đảo các tầng lớp tham gia nhưng do phong trào bị phân tán, thiếu liên kết giữa các cuộc khởi nghĩa và các vùng nên đã bị thất bại. Mặc dù vậy, phong trào nông dân Đàng Ngoài đã dọn đường cho thắng lợi của phong trào nông dân Tây Sơn ở cuối thế kỷ XVIII.

2. Tình hình Đàng Trong và phong trào nông dân Tây Sơn

a. Khủng hoảng của chế độ phong kiến Đàng Trong

Sau một thời gian dài phát triển thuận lợi, chế độ phong kiến Đàng Trong đí vào khủng hoảng. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, cải tổ lại bộ máy chính quyền, xây dựng Phú Xuân thành kinh đô. Công cuộc xây dựng cung điện và dinh thự diễn ra liên tục. Tiếp đó, vua và cận thần thả sức ăn chơi, không chăm lo đến cuộc sống của nhân dân. Khi Phúc Khoát chết, nội bộ triều đình chia rẽ. Phái Trương Phúc Loan giành quyền làm chủ triều đình, tự ý đưa Phúc Thuần nhỏ tuổi lên ngôi chúa, cất đặt quan lại và nắm lấy các nguồn lợi của nhà nước. Nhân cơ hội đó, quan lại ở các địa phương cũng mặc sức hoành hành, hạch sách nhũng nhiễu dân lành. Người nông dân rơi vào cảnh điêu đứng “một cổ hai tròng”.

Bên cạnh đó, kinh tế hàng hóa cũng ngày càng sa sút. Các đô thị như Hội An, Thanh Hà… tàn dần. Thương nhân nước ngoài không còn qua lại buôn bán. Nhiều hàng hóa của Đàng Ngoài (đặc biệt là đồng) không còn nhập khẩu. Không có đồng, chúa Nguyễn buộc phải cho đúc tiền bằng kẽm, do vậy đã xảy ra nạn “tiền hoang”. Hậu quả là giao lưu hàng hóa, nhất là nông sản giảm hẳn. Giá gạo ở Thuận Quảng cao vọt, dân nghèo thiếu đói liên miên, phải bỏ làng đi khắp nơi kiếm sống. Chính quyền chúa Nguyễn bất lực trước tình cảnh đó. Đàng Trong rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng.

b. Phong trào Tây Sơn

Năm 1771, trong tình cảnh đói kém, khổ cực, một cuộc khởi nghĩa đã bùng lên ở ấp Tây Sơn (Bình Định). Đứng đầu cuộc khởi nghĩa là 3 anh em: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Với khẩu hiệu “Đánh đổ quyền thần trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Phúc Dương”, cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng thu hút đông đảo nông dân và các tầng lớp dân nghèo tham gia. Sau nhiều trận chiến đấu, năm 1773, nghĩa quân đã làm chủ vùng đất Quy Nhơn, chuẩn bị đánh ra Quảng Ngãi, Quảng Nam ở phía Bắc và Bình Khang, Diên Khánh (Phú Yên, Bình Thuận) ở phía Nam.

Năm 1774, được tin quân Tây Sơn hoạt động mạnh ở Đàng Trong, chúa Trịnh cử Hoàng Ngũ Phúc đem quân vào đánh Phú Xuân. Trương Phúc Loan bị bắt, quân Trịnh kéo vào Phú Xuân. Đầu năm 1775, quân Trịnh tấn công Tây Sơn. Cùng lúc, lực lượng của chúa Nguyễn cũng đánh lên Diên Khánh. Trước tình thế đó, Nguyễn Nhạc vờ xin hàng quận Trịnh và xin làm tướng tiên phong đánh chúa Nguyễn. Năm 1777, toàn bộ lực lượng chúa Nguyễn bị tiêu diệt (trừ Nguyễn Ánh).

Năm 1778, Nguyễn nhạc lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu Thái Đức. Trong khi đó, ở Gia Định, được sự giúp đỡ của các thế lực địa chủ, Nguyễn Ánh tìm cách xây dựng lực lượng, chiếm lại thành. Cuộc chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh kéo dài từ 1778 – 1783. Cuối cùng, đất Gia Định đã thuộc về Tây Sơn, Nguyễn Ánh phải bỏ chạy sang Xiêm cầu cứu.

Tháng 7/1784, 5 vạn quân Xiêm với 300 chiến thuyền kéo vào Gia Định. Chúng mặc sức hoành hành, cướp bóc, giết hại dân lành. Trước tình hình đó, đầu năm 1785, Nguyễn Huệ đem quân vào Gia Định tiêu diệt quân Xiêm, giành thắng lợi lớn ở trận Rạch Gầm – Xoài Mút. Toàn bộ quân Xiêm bị đánh tan tành, Nguyễn Ánh bỏ chạy sang Xiêm. Sự kiện đó đánh dấu sự sụp đổ của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong.

Năm 1786, Nguyễn Huệ đánh ra Phú Xuân, đánh bại quân Trịnh ở Phú Xuân và chuẩn bị đánh ra Đàng Ngoài. Tháng 7/1786, Nguyễn Huệ chia quân thành hai cánh đánh ra Đàng Ngoài. Quân Tây Sơn chiếm được Vị Hoàng (Nam Định) và nhanh chóng tiến về Thăng Long. Trước sức mạnh như vũ bão của quân Tây Sơn, chúa Trịnh nhanh chóng bị đánh bại. Nguyễn Huệ trao toàn bộ quyền hành lại cho vua Lê và rút về Nam.

Sau khi quân Tây Sơn rút, Bắc Hà rối loạn. Tàn dư của chúa Trịnh trở lại giành quyền bá chủ. Các lực lượng thân nhà Lê hợp sức chống lại nhưng Lê Chiêu Thống lại tỏ ra bất lực. Trước tình hình đó, Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An bỏ Tây Sơn ra Bắc, mộ quân giúp vua Lê đánh Trịnh. Khi Trịnh bị diệt, Nguyễn Hữu Chỉnh cậy thế lộng quyền làm cho tình hình Bắc Hà rối loạn nghiêm trọng. Nhận được tin đó, Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm đem quân ra diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh bị diệt, Lê Chiêu Thống bỏ chạy sang Trung Quốc nhưng Vũ Văn Nhậm nhân đó lại lộng quyền. Tháng 5/1788, Nguyễn Huệ lại một lần nữa đem quân ra Bắc, giết chết Vũ Văn Nhậm, giao quyền hành lại cho Ngô Văn Sở và rút quân về Nam. Đàng Ngoài thuộc quyền thống trị của Tây Sơn, chính quyền Lê – Trịnh sụp đổ.

Như vậy, sau 15 năm đánh Nam, dẹp Bắc, phong trào nông dân Tây Sơn đã hoàn thành được một sự nghiệp chưa từng có trong lịch sử dân tộc: đánh đổ 3 tập đoàn phong kiến đang thống trị (chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong và chính quyền Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài) và giải phóng dân tộc khỏi hai thế lực ngoại xâm (Xiêm, Thanh), củng cố nền độc lập tự chủ và bước đầu nối liền hai miền đất nước sau gần 200 năm chia cắt.

c. Vương triều Nguyễn Tây Sơn

Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc đã cầu cứu quân Thanh. Nhân cơ hội đó, nhà Thanh đem quân sang xâm lược nước ta. Tháng 11/1788, 29 vạn quân Thanh chia làm 4 đạo ồ ạt tiến vào nước ta. Nhận được tin, tháng 12/1788, Nguyễn Huệ cho lập đàn tế trời, lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu Quang Trung và nhanh chóng đem quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh. Với chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa, 29 vạn quân Thanh đã bị đánh tan tành, buộc nhà Thanh phải rút quân về nước.

Với công lao to lớn ấy, vua Quang Trung xứng đáng trở thành người chủ của triều đại mới. Nhưng bấy giờ, mâu thuẫn giữa anh em Tây Sơn ngày càng căng thẳng. Kết quả là, Nguyễn Nhạc làm vua ở vùng Quảng Nam – Bình Thuận, Nguyễn Huệ làm vua từ Thuận Hóa trở ra Bắc, vùng Gia Định giao cho Nguyễn Lữ. Sự phân chia đất đai quyền lực đó đã tạo điều kiện cho Nguyễn Ánh quay về Gia Định, đánh bại Nguyễn Lữ, làm chủ Nam bộ.

3. Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX dưới triều Nguyễn

a. Tình hình chính trị

Năm 1802, sau khi đánh thắng Tây Sơn, Nguyễn Ánh tái lập vương triều Nguyễn, đóng đô ở Phú Xuân (Huế), đặt quốc hiệu là Việt Nam (1838 đổi quốc hiệu thành Đại Nam). Để xác định quyền thống trị, nhà Nguyễn cho thi hành nhiều chính sách về chính trị nhằm tổ chức lại bộ máy chính quyền.

Đứng đầu là vua, nắm mọi quyền hành. Giúp việc cho vua có 6 bộ và 5 phủ đô đốc. Vua trực tiếp làm việc với 6 bộ. Ngoài ra còn có Đô sát viện, Hàn lâm viện, Tôn nhân phủ… Đến thời Minh Mạng, có thêm Nội các và Viện cơ mật. Để tăng cường tính chuyên chế của dòng họ thống trị, nhà Nguyễn đặt lệ “tứ bất” (không hoàng hậu, không tể tướng, không lấy trạng nguyên và không phong vương cho người ngoài họ).

Ở các địa phương, ban đầu nhà Nguyễn tạm giữ các dinh, trấn cũ. Riêng 11 trấn Bắc Hà được gộp lại thành một tổng trấn gọi là Bắc thành, 5 trấn cực Nam cũ gộp lại thành một tổng trấn gọi là Gia Định thành. Các tổng trấn đều có chức Tổng trấn đứng đầu, có quyền quyết định mọi công việc trong khu vực và sau đó tâu lên nhà vua. Giúp việc cho Tổng trấn có Hộ tào, Binh tào, Hình tào. Ở các dinh trấn đều có một tổ chức thống nhất do Trấn thủ và Hiệp trấn đứng đầu với sự giúp đỡ của hai ty: Tả thừa (Lại, Binh, Hình), Hữu thừa (Hộ, Lễ, Công).

Gần 30 năm sau, để thống nhất chính quyền, Minh Mệnh tiến hành cải cách hành chính (1831). Các tổng trấn bị bãi bỏ. Cả nước được chia thành 30 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên. Đứng đầu tỉnh là Tổng đốc, dưới có Tuần phủ và 2 ty: Bố chính sứ ty (phụ trách ruộng đất, thuế, hộ khẩu) và Án sát sứ ty (phụ trách tư pháp). Về quân sự có chức Lãnh binh đứng đầu.

Dưới tỉnh là phủ (do Tri phủ đứng đầu); dưới phủ là huyện (miền xuôi) và châu (miền núi); tổng (do Chánh tổng đứng đầu); xã (do Lý trưởng phụ trách). Đối với các dân tộc ít người, từ 1929, Minh Mệnh bỏ chế độ thế tập các Thổ ty, Lang đạo và giao cho các địa phương tuyển chọn hào mục làm Thổ Tri châu, Thổ Tri huyện. Mấy năm sau lại đặt chế độ lưu quan, đưa quan lại miền xuôi lên cùng quản lý với các Thổ ty, Lang đạo.

Quan lại thời Nguyễn buổi đầu được tuyển chọn trong số các Thống chế, sĩ quan hay người có học. Về sau, nhà nước tổ chức thi cử để chọn quan lại (như thời Lê). Quan lại được chia theo phẩm hàm cao thấp và được hưởng bổng lộc hàng năm bằng gạo, tiền và ruộng đất.

Về luật pháp: Năm 1815, Gia Long ban hành bộ luật mới (thường gọi là luật Gia Long), gồm 398 điều và 30 điều tạp tụng. Luật Gia Long sao chép gần như nguyên vẹn luật nhà Thanh nên rất hà khắc, thiếu tính dân tộc. Luật nghiêm trị nặng nạn tham nhũng của quan lại, những người chống đối chính quyền.

Quân đội được tổ chức lại rất đông, vừa theo chế độ nghĩa vụ, vừa phải phục vụ suốt đời. Tổng số lên đến 1/3 dân đinh cả nước. Binh chủng có đủ loại: bộ binh, thủy binh, tượng binh, pháo binh. Ở các tỉnh thành đều được trang bị đại bác, súng cầm tay. Binh lính rất được ưu đãi về ruộng đất, song quân đội thời Nguyễn không còn dũng khí như giai đoạn trước.

Về đối ngoại, nhà Nguyễn thần phục nhà Thanh một cách mù quáng. Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Gia Long liền cử sứ bộ sang xin cầu phong và nộp phú cống. Từ đó, 4 năm một lần, nhà Nguyễn cho người sang nộp hai lần cống phẩm. Những khi sứ thần nhà Thanh sang phong vương, các vua nhà Nguyễn phải cùng quần thần ra tận Thăng Long để tiếp nhận. Mọi việc quan trọng của đất nước, nhà Nguyễn đều sai sứ sang xin ý kiến vua Thanh. Trong khi đó, nhà Nguyễn thường dùng vũ để khống chế các nước láng giềng ở phía Tây và phía Nam. Đối với các nước phương Tây thì chủ trương đóng cửa, không đặt quan hệ ngoại giao.

b. Tình hình kinh tế

* Ruộng đất và nông nghiệp:

Sau khi tái lập, nhà Nguyễn chú trọng phát triển kinh tế nông nghiệp nhằm khôi phục lại nền kinh tế đã bị hủy hoại trong thời kỳ nội chiến. Tuy nhiên, nền kinh tế ngày càng sa sút, nông nghiệp rơi vào bế tắc, tiêu điều. Sở hữu tư nhân về ruộng đất ngày càng phát triển, nạn kiêm tính ruộng đất của địa chủ ngày càng tăng. Trước tình hình đó, năm 1805, nhà Nguyễn lệnh cho các làng xã ở miền Bắc và miền Trung làm địa bạ, kê khai rõ ruộng đất các loại. Sau đó, năm 1832 – 1836, lệnh cho các địa phương trong cả nước phải hoàn thành việc lập địa bạ. Nhờ vậy, năm 1840, nhà nước đã tính được tổng ruộng đất trong cả nước khoảng 2 triệu ha, trong đó ruộng tư chiếm khoảng 83%, còn ruộng công chiếm khoảng 17%.

Để tăng cường số ruộng công, nhà Nguyễn đã ban hành lại chính sách “quân điền”, chia đều ruộng công cho dân các hạng. Tuy nhiên, chính sách này không còn hiệu quả trong thực tế như ở thời Lê. Bên cạnh đó, công cuộc khai hoang cũng được nhà Nguyễn khuyến khích, nhất là ở Nam kì. Từ năm 1802 – 1855, triều đình đã ban hành 25 Quyết định về khai hoang (Nam kì có 16 Quyết định). Trong đó, hình thức chủ yếu là chiêu mộ dân phiêu tán để khai hoang, lập nên các xóm làng, đồn điền, trại ấp. Tuy công cuộc khẩn hoang đạt nhiều kết quả, giải quyết khó khăn về ruộng đất cho nông dân. Nhưng ngay sau đó, ruộng đất lại rơi vào tay giai cấp địa chủ phong kiến. Hiện tượng nông dân phá sản, phải đi tha phương cầu thực trở nên phổ biến.

Bên cạnh đó, nạn sưu cao thuế nặng, lao dịch nặng nề, đê điều không được chăm lo chu đáo, sức dân không được nuôi dưỡng, cộng với thiên tai, bão lũ và dịch bệnh đã khiến nông thôn Việt Nam giữa thế kỷ XIX rơi vào cảnh tiêu điều, xơ xác. Số nông dân bị bần cùng hóa ngày càng nhiều. Họ sẵn sàng tham gia vào các cuộc nổi dậy chống lại triều đình.

* Công thương nghiệp:

Nhà Nguyễn mở rộng các quan xưởng để phục vụ nhu cầu nhà nước. Thợ làm việc ở các xưởng đều là thợ giỏi tuyển chọn ở các địa phương, làm việc theo ban (1 năm hay 6 tháng), được trả lương bằng tiền hoặc gạo. Nhờ lao động tập trung, người thợ có tay nghề cao, đúc súng hay đóng thuyền đều giỏi. Bên cạnh đó, việc tiếp xúc với khoa học, kĩ thuật phương Tây đã thúc đẩy tính sáng tạo của thợ thủ công. Năm 1839, họ đã đóng thành công chiếc tàu thủy chạy bằng máy hơi nước đầu tiên.

Trong nhân dân, các làng nghề thủ công truyền thống tiếp tục được duy trì. Các phường nghề, các làng thủ công vẫn giữ nguyên cách làm ăn cá thể, lạc hậu cũ. Do vậy, thủ công nghiệp ngày càng sa sút nghiêm trọng.

Thời Nguyễn, đất nước thống nhất cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán trong cả nước. Các chợ làng, chợ huyện, thị tứ hoạt động tấp nập hơn trước. Tuy nhiên, do nhà nước thực hiện chính sách “ức thương”, hạn chế sự đi lại của nhân dân cộng với chế độ thuế khóa nặng nề khiến cho nội thương suy yếu dần. Bên cạnh đó, việc nhà Nguyễn thực hiện chính sách “đóng cửa” đã hạn chế thương nhân nước ngoài ra vào buôn bán. Các đô thị cũ như: Hội An, Phố Hiến hầu như lụi hẳn. Cho đến nửa đầu thế kỷ XIX, kinh tế hàng hóa Việt Nam vẫn không có nhiều khởi sắc, do vậy không tạo nên được những nhân tố mới để giải quyết khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn.

c. Tình hình văn hóa – xã hội

* Văn hóa – tư tưởng

– Tôn giáo, tín ngưỡng: Các tôn giáo Nho, Phật, Đạo, Thiên chúa giáo tiếp tục được mở rộng trong nhân dân. Tuy nhiên, Nho giáo suy dần. Nguyên nhân chính là do tầng lớp quan lại, nho sĩ bị tha hóa và phong trào khởi nghĩa của nông dân diễn ra khắp nơi. Để ổn định trật tự xã hội, nhà Nguyễn tìm mọi cách chấn hưng Nho giáo. Nhà nước ban bố “thập điều” buộc nhân dân các làng xã phải tuân

Bên cạnh đó, cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, Thiên chúa giáo tiếp tục phát triển trong nhân dân. Giáo lí của Thiên chúa giáo có nhiều điểm không phù hợp với Nho giáo, với chế độ quân chủ nên bị nhà Nguyễn ban hành lệnh hạn chế và “cấm đạo”. Mặc dù vậy, các giáo sĩ Thiên chúa giáo vẫn len lỏi, tìm cách truyền đạo trong nhân dân. Số giáo dân ngày càng tăng.

Các tín ngưỡng cổ truyền vẫn tiếp tục được duy trì và phát huy trong nhân dân. Số nhà thờ họ tăng lên, tục thờ cúng tổ tiên, tôn thờ các vị anh hùng dân tộc, những người có công với làng, với xã rất phổ biến.

– Giáo dục thi cử: Từ các thế kỷ XVII – XVIII, giáo dục sa sút nghiêm trọng. Sang đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn tìm cách phục hồi giáo dục Nho học. Năm 1807, khoa thi Hương đầu tiên được tổ chức. Số người thi, người đậu không nhiều. Tuy nhiên, thời kỳ này vẫn xuất hiện nhiều nhà nho giỏi, có tiếng như: Ngô Thời Sĩ, Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích…

– Văn học, nghệ thuật:

Văn học chữ Hán, chữ Nôm phát triển mạnh với nhiều nhà văn, nhà thơ lỗi lạc như: Ngô Thời Sĩ, Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phạm Nguyễn Du, Phan Huy Ích… của thế kỷ XVIII và Cao bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Phạm Đình Hổ, Minh Mạng… nửa đầu thế kỷ XIX. Nhiều bộ sưu tập thơ văn như: Toàn Việt thi tập, Hoàng Việt văn hải, hay các tập ký sự như: Thượng Kinh kí sự, Tang thương ngẫu lục, Hoàng Lê nhất thống chí… ra đời.

Văn học dân gian tiếp tục phát triển nhất là ca dao, tục ngữ, truyện tiếu lâm. Đặc biệt, thời kỳ này đã xuất hiện những tập thơ Nôm dài, có nội dung sâu sắc như: Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm… Hai nhà thơ Nôm nữ là Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan rất được nhân dân hâm mộ.

Nghệ thuật sân khấu phát triển với các thể loại chèo, tuồng, dân ca… khẳng định sự phong phú trong cuộc sống tinh thần của nhân dân ta. Đặc biệt, về nghệ thuật điêu khắc có nổi lên khu hoàng thành của các chúa Nguyễn ở kinh đô Phú Xuân được xây dựng công phu, trang trí phong phú…

– Khoa học, kỹ thuật:

Sử học phát triển với việc biên soạn các bộ sử lớn của Quốc sử quán triều Nguyễn như: Đại Nam thực lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục… hay các bộ địa chí như: Hoàng Việt nhất thống địa dư chí, Đại Nam nhất thống chí…

Y học tương đối phát triển với thầy thuốc nổi tiếng Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác; triết học, chính trị phát triển với nhà bác học Lê Quý Đôn. Sự tiếp xúc với kỹ thuật phương Tây cũng làm nảy sinh một số phát minh, sáng chế về cơ khí, đặc biệt là việc đóng thành công một số tàu thủy chạy bằng máy hơi nước.

* Xã hội: khủng hoảng trầm trọng, mâu thuẫn ngày càng sâu sắc. Nguyên nhân là do chính sách tô cao thuế nặng, chế độ lao dịch hà khắc, nạn tham nhũng của quan lại, cộng với thiên tai bão lũ liên tiếp đã đè nặng lên cuộc sống của người dân, đặc biệt dân cày nghèo. Cuộc sống cơ cực, bị áp bức trăm bề đã buộc dân nghèo nổi dậy đấu tranh. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, trong khoảng 50 năm đầu thế kỷ XIX (1802 – 1855), đã nổ ra khoảng 500 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ. Phong trào đã lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia: nông dân nghèo, thợ thủ công, trí thức, quan chức nhỏ, binh lính. Trong đó có những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như: Khởi nghĩa Phan Bá Vành , Khởi nghĩa Cao Bá Quát ở miền xuôi và Khởi nghĩa Lê Duy Lương, Nông Văn Vân ở miền núi. Chính các cuộc khởi nghĩa của nông dân đã làm cho nhà Nguyễn ngày càng suy yếu và bất lực. Đây là cơ hội để thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt

4. Một số nhận xét về lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX

a. Những đặc điểm cơ bản của lịch sử Việt Nam thời kỳ phong kiến độc lập

Trải qua hơn 9 thế kỷ độc lập, nhân dân Đại Việt vừa xây dựng cho mình một chế độ quân chủ chuyên chế, một nền kinh tế tự chủ, một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, lại vừa phải đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ vững chắc nền độc lập và mở rộng lãnh thổ. Trong quá trình ấy, chế độ phong kiến Đại Việt đã phát triển một cách đầy đủ, toàn diện ở thế kỷ XV, rồi lâm vào khủng hoảng, suy tàn ở thế kỷ XVI – XIX. Mâu thuẫn giai cấp sâu sắc và khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Trong bối cảnh đó, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, kết thúc thời kỳ phong kiến độc lập.

Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ nhà nước phong kiến độc lập, các triều đại quân chủ đã xây dựng được một hệ thống pháp luật thành văn tương đối hoàn chỉnh và đưa pháp luật chính thức đi vào cuộc sống. Trong đó, tiêu biểu nhất là bộ luật Hồng Đức thời Lê (XV).

Đặc biệt là, xuyên suốt trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X – XIX, truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc được phát huy mạnh mẽ. Truyền thống đó đã góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Đại Việt đậm đà bản sắc riêng của dân tộc Việt

b. Ý nghĩa công cuộc xây dựng và bảo vệ nhà nước phong kiến độc lập tự chủ

Thời đại phong kiến ở Việt Nam trải qua các giai đoạn hình thành và xác lập, giai đoạn phát triển trong chia cắt, giai đoạn suy vong thông qua sự tồn tại và nối tiếp nhau của các triều đại (Khúc, Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê Sơ, Lê Mạt, Nguyễn Tây Sơn, Nguyễn). Trong suốt 9 thế kỷ ấy, nhà nước phong kiến Đại Việt đã trải qua một quá trình đấu tranh lâu dài, phức tạp và kiên quyết để xây dựng và bảo vệ nhà nước phong kiến độc lập. Cuộc đấu tranh đó đã có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, làm cho ý thức dân tộc ngày càng trưởng thành và góp phần thúc đẩy xã hội đi lên.

Bên cạnh đó, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ nhà nước phong kiến độc lập tự chủ sáng tạo, tinh thần cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, kiên cường bất khuất trong đấu tranh chống ngoại xâm của nhân ta cũng được phát huy cao độ, góp phần xây dựng nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt, tính cách Việt, tâm hồn Việt.

(Tài liệu tham khảo: Trần Văn Thức, Giáo trình tiến trình lịch sử Việt Nam)

4.5/5 - (2 bình chọn)

Có thể bạn quan tâm

Lytuong.net – Contact: admin@lytuong.net