Nội dung Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại: Cơ sở lý luận, thực tiễn và các giải pháp ở nước ta.
1. Khái niệm
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh là sự gắn kết giữa kinh tế với quốc phòng và an ninh trong một thể thống nhất nhằm bổ sung, tạo điều kiện, thúc đẩy cùng nhau nhịp nhàng phát triển với hiệu quả kinh tế xã hội cao, kinh tế phát triển, quốc phòng, an ninh và đối ngoại vững mạnh góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước, bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, nếu chiến tranh xảy ra thì đánh thắng.
Hoạt động kinh tế cơ bản, thường xuyên, gắn liền với sự tồn tại của xã hội loài người. Đó là toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, phục vụ cho nhu cầu đời sống con người.
Quốc phòng là công việc giữ nước của một quốc gia, bao gồm tổng thể các hoạt động đối nội đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội… nhằm mục đích bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng đất nước.
An ninh, trạng thái ổn định an toàn, không có dấu hiệu nguy hiểm để đe dọa sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của tổ chức, của từng lĩnh vực hoạt động xã hội hoặc của toàn xã hội. Việt Nam, bảo vệ an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn dân và của cả hệ thống chính trị do lực lượng an ninh làm nòng cốt; bảo vệ an ninh luôn kết hợp chặt chẽ với củng cố quốc phòng. Kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh ở nước ta là:
hoạt động tích cực, chủ động của Nhà nước và nhân dân trong việc gắn kết chặt chẽ hoạt động kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh trong một chỉnh thể thống nhất trong phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương, thúc đẩy nhau cùng phát triển, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp ở từng quốc gia, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ quan trọng chiến lược xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Cơ sở lí luận của sự kết hợp
Kinh tế, quốc phòng, an ninh là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia dân tộc độc lập có chủ quyền. Mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động riêng, song giữa chúng lại có mỗi liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, kinh tế là yếu tố suy cho đến cùng quyết định đến quốc phòng – an ninh; ngược lại quốc phòng – an ninh cũng có tác động tích cực trở lại với kinh tế, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.
Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của quốc phòng – an ninh. Lợi ích kinh tế, suy đến cùng là nguyên nhân làm nảy sinh các mâu thuẫn và xung đột xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn đó, phải có hoạt động quốc phòng – an ninh.
Bản chất của chế độ kinh tế xã hội quyết định đến bản chất của quốc phòng – an ninh vì mục đích bảo vệ và đem lại lợi ích cho mọi thành viên trong xã hội là do bản chất của chế độ xã hội, xã hội chủ nghĩa quy định, còn tăng cường sức mạnh quốc phòng – an ninh vì mục đích bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản cầm quyền, thực hiện chiến tranh xâm lược là do bản chất của chế dộ kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa quyết định.
Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp nhân lực, vật lực cho hoạt động quốc phòng – an ninh.
Friedrich Engels đã khẳng định: “Không có gì phụ thuộc vào kinh tế tiên quyết hơn chính là quân đội và hạm đội”, “Thắng lợi hay thất bại của chiến tranh đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế,..”. Vì vậy, để xây dựng quốc phòng, an ninh vững mạnh phải xây dựng, phát triển kinh tế.
Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân lực, vật lực cho quốc phòng, an ninh, qua đó quyết định đến tổ chức biên chế của lực lượng vũ trang; quyết định đến đường lối chiến lược quốc phòng, an ninh quốc gia của mỗi nước, phải căn cứ vào nhiều yếu tố, trong đó tổ chức biên chế của lực lượng vũ trang và vào trang bị binh khí kĩ thuật hiện có là căn cứ đặc biệt quan trọng. Những yếu tố này đều phụ thuộc vào nền kinh tế.
Quốc phòng – an ninh không chỉ phụ thuộc vào nền kinh tế mà còn tác động trở lại với kinh tế – xã hội trên cả góc độ tích cực lẫn tiêu cực. Quốc phòng – an ninh vững mạnh sẽ tạo môi trường hòa bình ổn định lâu dài, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế xã hội. Quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng – an ninh trong thời bình ở mức độ nhất định cũng có tác dụng kích thích kinh tế phát triển. Tiêu dùng cho hoạt động quốc phòng – an ninh, một mặt đặt ra cho nền kinh tế phải sản xuất ra sản phẩm, hoặc thông qua mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để đáp ứng như cầu tiêu dùng của nó; mặt khác sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ sản phẩm của nền kinh tế.
Hoạt động quốc phòng- an ninh tiêu tốn đáng kể một phần nguồn nhân lực, vật lực, tài chính của xã hội. Những tiêu dùng này, như V.I. Lê_nin đánh giá là “tiêu dùng mất đi”, không quay vào tái sản xuất xã hội. Do đó sẽ ảnh hưởng đến tiêu dùng của xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế.
Hoạt động quốc phòng, an ninh còn ảnh hưởng đến đường lối phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế. Hoạt động quốc phòng, an ninh còn có thể dẫn đến hủy hoại môi trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho kinh tế, nhất là khi chiến tranh xảy ra. Để hạn chế những tác động tiêu cực này, phải kết hợp tốt tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh với phát triển kinh tế xã hội vào một chỉnh thể thống nhất.
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh là một tất yếu khách quan. Mỗi lĩnh vực hoạt động đều có nội dung, phương thức riêng nhưng lại có sự thống nhất ở mục đích chung, cái này là điều kiện tồn tại của cái kia và ngược lại. Tuy nhiên cần phải nhận thức rõ mỗi lĩnh vực có quy luật phát triển đặc thù, do đó việc kết hợp phải được thực hiện một cách khoa học, hợp lý, cân đối và hài hòa.
3. Cơ sở thực tiễn của sự kết hợp tại Việt Nam
Nhìn vào tiến trình phát triển của các quốc gia trên thế giới chúng ta thấy, dù là nước lớn hay nước nhỏ, kinh tế phát triển hay chưa phát triển; dù chế độ kinh tế như thế nào thì mỗi quốc gia cũng đều chăm lo thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh, kẻ cả với những nước mà hàng trăm năm nay chưa hề xảy ra chiến tranh. Tuy nhiên các nước khác nhau, với chế độ chính trị – xã hội khác nhau, điều kiện hoàn cảnh khác nhau thì sự kết hợp đó cũng có sự khác nhau về mục đích, nội dung, phương thức và kết quả. Ngay trong một nước, trong mỗi giai đoạn phát triển thì sự kết hợp cũng khác nhau.
Ở Việt Nam, sự kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh đã được thực hiện từ lâu trong lịch sử. Dựng nước đi đôi với giữ nước đã trở thành quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta.
Đứng trước nguy cơ thường xuyên bị đe dọa, xâm lược và thôn tính của các thế lực thù địch, để xây dựng và phát triển đất nước, ông cha ta đã có những chủ trương, kế sách thực hiện sự phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh trong quá trình dựng nước và giữ nước. Các triều đại phong kiến Việt Nam, luôn lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm trọng, đề ra kế sách giữ nước với tư tưởng: “nước lấy dân làm gốc”, “dân giàu nước mạnh”, “quốc phú binh cường”; Thực hiện “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc để “yên dân” mà “vẹn đất”. Thực hiện kế sách “ngụ binh ư nông”, “động vi binh tĩnh vi dân”, “Bách tính gia binh” để vừa phát triển kinh tế, vừa tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.
Trong xây dựng, phát triển kinh tế, đã sử dụng nhiều chính sách như khai hoang lập ấp ở những nơi xung yếu để “phục binh sẵn phá thế giặc dữ” từ xa; phát triển nghề thủ công để vừa sản xuất ra các công cụ sản xuất, vừa sản xuất ra các vũ khí, phương tiện phục vụ cho toàn dân đánh giặc; chăm lo mở mang đường xá, đào sông ngòi, kênh rạch xây đắp đê điều để vừa phát triển kinh tế, vừa tao thế trận đánh giặc, cơ động lực lượng trong chiến tranh bảo về tổ quốc.
Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, do nắm vững quy luật và kế thừa kinh nghiệm của lịch sử nên đã thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh một cách nhất quán bằng những chủ trương sách tạo, phù hợp với thời kì cách mạng
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) Đảng ta đề ra chủ trương “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, “vừa chiến đấu vừa tham gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”, “vừa thực hiện phát triển kinh tế ở địa phương vừa tiến hành chiến tranh Nhân dân rộng khắp, “xây dựng làng kháng chiến”, địch đến thì đánh, địch lui ta lại tham gia sản xuất.
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954-1975), kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh đã được Đảng ta chỉ đạo thực hiện ở mỗi miền với nội dung và hình thức thích hợp.
Ở miền Bắc, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và xây dựng hậu phương lớn cho miền Nam đánh giặc, Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra chủ trương: “Trong xây dựng kinh tế, phải thấu suốt nhiệm vụ phục vụ quốc phòng cũng như trong củng cố quốc phòng phải khéo sắp xếp cho ăn khớp với công cuộc xây dựng kinh tế”. Theo tinh thần đó, miền bắc đã xây dựng, phát triển chế độ xã hội mới, nền kinh tế mới, văn hóa mới, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; đồng thời kết hợp chặt chẽ với chăm lo củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh, đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, bảo vệ vững chắc miền bắc xã hội chủ nghĩa và chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền nam đánh thắng giặc Mĩ xâm lược.
Ở miền Nam, Đảng chỉ đạo quân và dân ta kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch với củng cố mở rộng hậu phương, xây dựng căn cứ địa miền Nam vững mạnh. Đây chính là một điều kiện cơ bản bảo đảm cho cách mạng nước ta đi tới thắng lợi.
Thời kì này, chúng ta phải tập chung cao độ cho nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam nên việc kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố an ninh được thực hiện dưới nhiều hình thức phong phú, sinh động và thiết thực, đã tạo được sức mạnh tổng hợp đánh thắng giặc Mĩ xâm lược và để lại nhiều bài học quý giá cho thời kì sau.
Thời kì cả nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội (từ 1975 đến nay) kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh được Đảng ta khẳng định là một nội dung quan trọng trong đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và được triển khai trên quy mô rộng lớn toàn diện hơn. Từ năm 1986 đến nay với tư duy mới về kinh tế và quốc phòng, an ninh, việc kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phong – an ninh trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, bộ, ban, ngành có bước chuyển biến cả trong nhận thức và tổ chức thực hiện, đã thu được nhiều kết quả quan trọng.
Nhờ chính sách nhất quán về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh chúng ta đã phát huy được mọi tiềm năng cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. trong thời bình, cùng với phát triển kinh tế là chăm lo củng cố tiềm lực quốc phòng, thế trận quốc phòng. Nhờ vậy khi đất nước bị xâm lược chúng ta đã động viên được “cả nước đồng lòng, toàn dân đánh giặc”: kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kể thù. Do vậy đã góp phần giữ gìn và phát triển đất nước cho đến ngày nay.
4. Nội dung kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại ở nước ta
4.1. Kết hợp trong xác định chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh phải được thể hiện ngay trong việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia.
Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 với mục tiêu tổng quát: “Tăng trưởng bền vững, có hiệu quả, đi đôi với tiến độ, công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, giữ vững ổn định chính trị – xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia”.
Như vậy, trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đã bao quát toàn diện các vấn đề của
đời sống xã hội, trong đó nổi lên 3 vấn đề lớn là:
[1]. Tăng trưởng kinh tế bền vững, có hiệu quả gắn với tiến bộ, công bằng xã hội.
[2]. Bảo vệ tài nguyên và môi trường.
[3]. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Các mục tiêu cụ thể:
– Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các cân đối lớn; giữ vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh tài chính. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang phát triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu; từng bước thực hiện tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế các bon thấp. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả mọi nguồn lực.
– Xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, công bằng, văn minh; nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, tinh thần, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trở thành động lực phát triển quan trọng. Giữ vững ổn định chính trị – xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
– Giảm thiểu các tác động tiêu cực của hoạt động kinh tế đến môi trường. Khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo. Phòng ngừa, kiểm soát và khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường, cải thiện chất lượng môi trường, bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học. Hạn chế tác hại của thiên tai, chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng.
Sự kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh trong chiến lược phát triển kinh tế được thể hiện ngay trong việc hoạch định mục tiêu phát triển quốc gia, trong huy động nguồn lực, trong lựa chọn và thực hiện các giải pháp chiến lược.
Sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh sẽ phát huy sức mạnh của từng lĩnh vực, kết hợp với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp, quy tụ mọi nguồn lực, lực lượng trong nước và quốc tế nhằm hoàn thành thắng lợi mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020.
4.2. Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh trong phát triển các vùng lãnh thổ
Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh theo vùng lãnh thổ là sự gắn kết chặt chẽ phát triển vùng kinh tế chiến lược, với xây dựng vùng chiến lược quốc phòng – an ninh, nhằm tạo ra thế bố trí chiến lược mới cả về kinh tế lẫn quốc phòng, an ninh trên từng vùng lãnh thổ, địa bàn tỉnh, thành phố theo ý đồ phòng thủ chiến lược bảo vệ Tổ quốc, …
Hiện nay nước ta phân chia thành những vùng kinh tế lớn và các vùng chiến lược, các quân khu (sự phân vùng chiến lược quốc phòng – an ninh là sự phân vùng theo chiến lược phòng thủ và tác chiến bảo vệ Tổ quốc trên từng chiến trường, từng chiến lược của đất nước. Mỗi vùng đều có vị trí chiến lược về phát triển kinh tế và chiến lược phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy về lâu dài đều phải quan tâm chỉ đạo kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế xã hội với củng cố quốc phòng – an ninh trên từng vùng lãnh thổ và giữa các vùng với nhau trong thế trận phòng thủ chung.
Các vùng chiến lược khác nhau có sự khác nhau về đặc điểm và yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, quốc phòng – an ninh nên nội dung kết hợp cụ thể trong mỗi vùng có thể có sự khác nhau. Song việc kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với củng cố quốc phòng – an ninh ở các vùng lãnh thổ cũng như đại bàn mỗi tỉnh, thành phố phải được thực hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
Một là, kết hợp trong xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội với quốc phòng an ninh của vùng cũng như trên địa bàn từng tỉnh, thành phố.
Hai là, kết hợp trong quá trình chyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu kinh tế địa phương với xây dựng các khu vực phòng thủ then chốt, các cụm chiến đấu liên hoàn, các xã phường chiến đấu trên địa bàn các tỉnh, thành phố, huyện, quận.
Ba là, kết hợp trong qúa trình phân công lại lao động của vùng, phân bố lại dân cư với tổ chức
phân loại và điều chỉnh, sắp xếp phân bố lại lực lượng quốc phòng, an ninh trên địa bàn lãnh thổ sao cho phù hợp với từng chiến lược phát triển kinh tế xã hội và kế hoạch phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm ở đâu có đất, biển đảo là ở đó có dân và lực lượng quốc phòng, an ninh để bảo vệ cơ sở, bảo vệ Tổ quốc. Bốn là, kết hợp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với xây dựng các công trình quốc phòng, quân sự, phòng thủ dân sự, thiết bị chiến trường, bảo đảm tính “lưỡng dụng” trong mỗi công trình được xây dựng. Năm là, kết hợp xây dựng các cơ sở kinh tế vững mạnh, toàn diện, rộng khắp với xây dựng các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần kĩ thuật và hậu phương vững chắc cho mỗi vùng và cả ở các địa phương để sẵn sàng đối phó khi có xâm lược.
Trên cơ sở kết hợp toàn cục yêu cầu nói trên, xuất phát từ sự phân tích đặc điểm, quốc phòng – an ninh của các vùng lãnh thổ trong cả nước, hiện nay Đảng ta xác định phải chú trọng nhiều hơn tới các vùng kinh tế trọng điểm, vùng biển đảo và vùng biên giới.
a- Đối với các vùng kinh tế trọng điểm
Hiện nay nước ta xác nhận 4 vùng kinh tế trọng điểm: Bắc Bộ (Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc); Trung Bộ (Thừa Thiên- Huế Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định), Nam Bộ (Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng tàu, Bình Phước, Long An, Tiền Giang), ĐB Sông Cửu Long (TP Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau). Các vùng kinh tế trọng điểm nói trên đều là nòng cốt cho phát triển kinh tế từng miền và cho cả nước. Các vùng kinh tế trọng điểm đã đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế; bình quân hàng năm giai đoạn 2011-2019, cả 4 vùng kinh tế trọng điểm đóng góp 72,95% vào tốc độ tăng bình quân GDP của toàn bộ nền kinh tế. Các vùng kinh tế trọng điểm là các cực tăng trưởng quan trọng, đã thể hiện vai trò đầu tàu, dẫn dắt cả nước, cứ 1% tăng trưởng của 4 vùng kinh tế trọng điểm sẽ làm GDP của toàn bộ nền kinh tế tăng 0,61%. Nổi bật là vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, trong giai đoạn 2011-2019, quy mô GRDP của 2 vùng chiếm tỷ trọng hơn 61% trong GDP, thể hiện là các vùng “trọng điểm của các vùng trọng điểm”.
Về kinh tế, các vùng kinh tế trọng điểm là mơi có mật độ dân cư và tính chất đô thị hóa cao, gắn liền với những khu công nghiệp lớn, những đặc khu kinh tế, các liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là nơi tập trung các mối giao thông quan trọng, các sân bay, bến cảng, kho tàng, dịch vụ…
Về quốc phòng – an ninh, mỗi vùng kinh tế trọng điểm thường nằm trong các khu vực phòng thủ và phòng thủ then chốt của đất nước, nơi có nhiều đối tượng, mục tiêu quan trọng cần bảo vệ: đồng thời cũng là nơi nằm trên các hướng có khả năng là hướng tiến công chiến lược chủ yếu trong chiến tranh xâm lược của địch; hoặc đã và đang là địa bàn trọng điểm để địch thực hiện chiến lược”diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đô nước ta. Vì vậy, phải thực hiện thật tốt phát triển kinh tế gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh trên các vùng này.
Nội dung kết hợp cần tập trung vào các vấn đề sau:
Trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng các thành phố, các khu công nghiệp cần lựa chọn quy mô trung bình, bố trí phân tán, trải đều trên diện rộng, không nên xây dựng tập trung thành những siêu đô thị lớn, để thuận lợi cho quản lí, giữ gìn an ninh chính trị trong thời bình và hạn chế hậu quả tiến công hoả lực của địch khi có chiến tranh.
Phải kết hợp chặt chẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với kết cấu hạ tầng của quốc phòng toàn dân. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với xây dựng các công trình phòng thủ, các thiết bị chiến trường, các công trình phòng thủ dân sự… Về lâu dài, ở các thành phố, đô thị, các khu kinh tế tập trung, cần có quy hoạch từng bước xây dựng hệ thống “công trình ngầm lưỡng dụng”. Phải bảo vệ, bảo tồn các địa hình, địa vật, các khu vực có giá trị về phòng thủ, khi bố trí các cơ sở sản xuất, các công trình kinh tế, phê duyệt dự án đầu tư nước ngoài. Khắc phục tình trạng chỉ chú ý đến các yếu tố bảo đảm quốc phòng, an ninh mà không tính đến lợi ích kinh tế.
Trong quá trình xây dựng các khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế phải có sự gắn kết với quy hoạch xây dựng lực lượng quốc phòng – an ninh, các tổ chức chính trị, đoàn thể ngay trong các tổ chức kinh tế đó. Lựa chọn đối tác đầu tư, bố trí xen kẽ, tạo thế đan cài lợi ích giữa các nhà đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp, đặc khu kinh tế, khu chế xuất.
Việc xây dựng, phát triển kinh tế ở các vùng kinh tế trọng điểm phải nhằm đáp ứng phục vụ nhu cầu dân sinh thời bình và cả cho việc chuẩn bị đáp ứng nhu cầu chi viện cho các chiến trường khi chiến tranh xảy ra. Kết hợp phát triển kinh tế tại chỗ với xây dựng căn cứ hậu phương của từng vùng kinh tế trọng điểm để sẵn sàng chủ động di dời, sơ tán đến nơi an toàn khi có tình huống chiến tranh xâm lược.
b- Đối với vùng núi biên giới
Vùng núi biên giới của nước ta có chiều dài tiếp giáp với Trung Quốc, Lào, Campuchia. Đây là địa bàn sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc ít người, mật độ dân số thấp (trung bình khoảng 20-40 người /km2), kinh tế chưa phát triển, trình độ dân trí thấp, đời sống dân cư còn nhiều khó khăn. Vùng núi biên giới có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Trước đây các vùng này đã từng là căn cứ địa kháng chiến, hậu phương chiến lược của cả nước. Ngày nay, trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, các vùng núi biên giới vẫn là vùng chiến lược hết sức trọng yếu. Trong khi đó, ở đây còn có nhiều khó khăn, yếu kém về kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh dễ bị kẻ thù lợi dụng để lôi kéo, kích động đồng bào, thực hiện âm mưu chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, nhiều nơi tình hình rất phức tạp. Vì vậy, trước mắt cũng như lâu dài, việc kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh ở vùng núi biên giới là cực kì quan trọng.
Việc kết hợp cần tập trung vào các nội dung sau:
Phải quan tâm đầu tư phát triển kinh tế, cùng với quốc phòng, an ninh ở các vùng cửa khẩu, các vùng giáp biên giới với các nước.
Phải tổ chức tốt việc định canh, định cư tại chỗ và có chính sách phù hợp để động viên, điều chỉnh dân số từ các nơi khác đến vùng núi biên giới
Tập trung xây dựng các xã trọng điểm về kinh tế và quốc phòng, an ninh. Trước hết, cần tập trung xây dựng phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở, mở mới và nâng cấp các tuyến đường dọc, ngang, các tuyến đường vành đai kinh tế.
Thực hiện tốt chương trình xoá đói, giảm nghèo, chương trình 135 về phát triển kinh tế – xã hội đối với các xã nghèo
Đối với những nơi có địa thế quan trọng, vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn, cần kết hợp mọi nguồn lực, mọi lực lượng của cả Trung ương và địa phương để cùng lo, cùng làm.
Đặc biệt với các địa bàn chiến lược trọng yếu dọc sát biên giới, cần có chính sách động viên và sử dụng lực lượng vũ trang, lực lượng quân đội làm nòng cốt xây dựng các khu kinh tế quốc phòng, hoặc các khu quốc phòng- kinh tế, nhằm tạo thế và lực mới cho phát triển kinh tế xã hội và tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh.
c- Đối với vùng biển đảo
Nước ta có vùng biển vừa dài vừa rộng, với diện tích hơn 1 triệu km2 (gấp hơn 3 lần diện tích đất liền). Vùng biển đảo nước ta có nhiều tiềm năng về hải sản và khoáng sản, là cửa ngõ thông thương giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, có khả năng phát triển một số ngành mũi nhọn của đất nước trong tương lai. Tuy nhiên, việc khai thác lợi thế đó của ta còn nhiều hạn chế, đặc biệt vùng biển đảo của ta hiện nay đang có nhiều tranh chấp rất phức tạp, chứa đựng nguy cơ đe dọa chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc và rất dễ bùng bổ xung đột. Trong khi đó, chúng ta lại chưa có chiến lược tổng thể hoàn chỉnh về phát triển kinh tế biển và bảo vệ biển, đảo. Lực lượng và sức mạnh tổng hợp trên biển còn quá mỏng.Vì vậy, việc quan tâm thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh trên vùng biển, đảo là đòi hỏi bức bách và rất quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài, nhằm nhanh chóng tạo ra thế và lực đủ bảo vệ, làm chủ toàn diện vùng biển, đảo, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế biển phát triển nhanh làm giàu cho Tổ quốc.
Nội dung kết hợp cần tập trung vào các vấn đề sau:
Tập trung trước hết vào xây dựng, hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế và xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh bảo vệ biển, đảo trong tình hình mới, làm cơ sở cho việc thực hiện kết hợp kinh tế xã hội với quốc phòng, an ninh một cách cơ bản, toàn diện, lâu dài.
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch từng bước đưa dân ra vùng ven biển và các tuyến đảo gần trước để có lực lượng xây dựng căn cứ hậu phương, trụ bám phát triển kinh tế và bảo vệ biển, đảo một cách vững chắc, lâu dài.
Nhà nước phải có cơ chế chính sách thoả đáng động viên, khích lệ dân ra đảo trụ bám làm ăn lâu dài.
Phát triển các loại hình dịch vụ trên biển, đảo, tạo điều kiện cho dân bám trụ, sinh sống, làm ăn.
Xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện mở rộng liên kết làm ăn kinh tế ở vùng biển, đảo thuộc chủ quyền nước ta với các nước phát triển, nhằm tạo ra các đối tác đan xen lợi ích và đối tượng chống lại sự lấn lướt của các nước lớn. Thông qua đó, vừa thể hiện chủ quyền của nước ta, vừa hạn chế âm mưu bành chướng lấn chiếm biển đảo của các thế lực thù địch, tạo thế và lực để giải quyết hòa bình các tranh chấp trên biển, đảo.
Chú trọng đầu tư phát triển chương trình đánh bắt xa bờ, thông qua đó xây dựng lực lượng dân quân biển, các hải đoàn tự vệ của ngành Hàng hải, Cảnh sát biển, kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn kịp thời những hoạt động vi phạm chủ quyền biển, đảo của nước ta,… xây dựng một số đơn vị kinh tế – quốc phòng mạnh phát triển, đảo để làm nòng cốt cho phát triển kinh tế biển và tạo thể bảo vệ biển, đảo vững chắc.
Xây dựng phương án đối phó với các tình huống có thể xảy ra ở vùng biển, đảo nước ta. Mạnh dạn đầu tư xây dựng lực lượng nòng cốt và thế trận phòng thủ trên biển, đảo, trước hết là sự phát triển và hiện đại hoá lực lượng Hải Quân nhân dân Việt Nam để đủ sức mạnh canh giữ, bảo vệ vùng biển đảo.
4.3. Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế chủ yếu
a- Kết hợp trong công nghiệp
Công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng của quốc gia, cung cấp máy móc, nguyên nhiên liệu cho các ngành kinh tế khác và cho chính nó cũng như cho công nghiệp quốc phòng; sản xuất sản phẩm tiêu dùng cho xã hội, phục vụ xuất khẩu; sản xuất ra vũ khí, trang thiết bị quân sự đáp ứng nhu cầu hoạt động quốc phòng, an ninh.
Nội dung kết hợp KT-XH với quốc phòng, an ninh và đối ngoại và trong phát triển công nghiệp là:
+ Kết hợp ngay từ khâu quy hoạch bố trí các đơn vị kinh tế của ngành công nghiệp. Bố trí một cách hợp lí trên các vùng lãnh thổ, quan tâm đến vùng sâu, vùng kinh tế kém phát triển, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
+ Tập trung đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp liên quan đến quốc phòng cũng như cơ khí, chế tạo, điện tử, công nghiệp, điện tử kĩ thuật cao, luyện kim, hoá chất, đóng tàu để vừa đáp ứng nhu cầu trang bị cơ giới cho nền kinh tế, vừa có thể sản xuất ra một số sản phẩm kĩ thuật công nghiệp cao phục vụ quốc phòng, an ninh.
Phát triển công nghiệp quốc gia theo hướng mỗi nhà máy, xí nghiệp vừa có thể sản xuất hàng dân dụng, vừa có thể sản xuất hàng quân sự. Kết hợp trong đầu tư nghiên cứu, sáng chế, chế tạo, sản xuất các mặt hàng có tính lưỡng dụng cao trong các nhà máy và ở một số cơ sở công nghiệp nặng. Các nhà máy công nghiệp quốc phòng trong thời bình, ngoài việc sản xuất ra hàng quân sự phải tham gia sản xuất hàng dân sự chất lượng cao,phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Theo hướng trên, từ nay đến năm 2020, Nhà nước cần tập trung xây dựng một số nhà máy mũi nhọn,có thể tham gia nghiên cứu, sáng chế và sản xuất một số mặt hàng quân sự đáp ứng trang bị cho lực lượng vũ trang, trong đó tập trung vào một số ngành cơ khí luyện kim, cơ khí chế tạo, điện tử, tin học, hoá dầu.
Mở rộng liên doanh, liên kết giữa ngành công nghiệp nước ta (bao gồm cả công nghiệp quốc phòng) với công nghiệp của các nước tiên tiến trên thế giới: ưu tiên những ngành, lĩnh vực có tính hữu dụng cao.
Thực hiện chuyển giao công nghệ hai chiều, từ công nghiệp quốc phòng vào công nghiệp dân dụng và ngược lại.
Phát triển hệ thống phòng không không công nghiệp và phát triển lực lượng tự vệ để bảo vệ các nhà máy, xí nghiệp trong cả thời bình lẫn thời chiến.
Xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp quốc gia phục vụ thời chiến, thực hiện dự trữ chiến lược các nguyên, nhiên, vật liệu quý hiếm cho sản xuất quân sự.
b- Kết hợp nông, lâm, ngư nghiệp.
Hiện nay nước ta còn 65,6% dân số sống ở nông thôn và lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 33,5% tổng số lao động. Phần lớn lực lượng, của cải huy động cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là từ khu vực này.
Kết hợp phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng, an ninh trong các lĩnh vực này cần tập trung chú ý các vấn đề sau: – Kết hợp phải nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đất, rừng, biển, đảo và lực lượng lao động để phát triển đa dạng ngành trong nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, làm ra nhiều sản phẩm hàng hóa có giá trị cao phục vụ cho tiêu dùng trong nước, xuất khẩu và có lượng dự trữ dồi dào về mọi mặt trong quốc phòng, an ninh.
– Kết hợp trong nông, lâm, ngư nghiệp phải gắn với việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe, đền ơn đáp nghĩa, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, xây dựng nông thôn mới văn minh hiện đại. Bảo đảm an ninh lương thực và an ninh nông thôn, góp phần tạo ra thế trận phòng thủ,”thế trận lòng dân”vững chắc.
– Phải kết hợp gắn việc động viên đưa dân ra lập nghiệp ở các đảo để xây dựng các làng, xã, huyện đảo vững mạnh chú trọng đầu tư xây dựng phát triển các hợp tác xã, các đội tàu thuyền đánh cá xa bờ, xây dựng lực lượng tự vệ, lực lượng dân quân biển, đảo, phối hợp chăt chẽ với lực lượng Hải quân và Cảnh sát biển để bảo vệ biển, đảo.
– Phải đẩy mạnh phát triển trồng rừng gắn liền với công tác định canh định cư, xây dựng các cơ sở chính trị vững chắc ở vùng rừng núi biên giới nước ta, đặc biệt là ở Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
c- Kết hợp trong giao thông, bưu điện, y tế, khoa học – công nghệ, giáo dục và xây dựng cơ bản.
Trong giao thông vận tải:
– Phát triển hệ thống giao thông đường tải đồng bộ đường bộ cả đường bộ, đường sắt, đường không, đường sông, đường thủy, đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa trong nước và mở rộng giao lưu với bên ngoài.
– Trong xây dựng các mạng đường bộ, cần chú trọng mở rộng, nâng cấp các tuyến trục đường BắcNam với tuyến đường trục dọc Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh. Từ các tuyến đường này phải phát triển các tuyến đường ngang, nối liền giữa các trục dọc với nhau và phát triển đến các huyện, các xã trong cả nước, nhất là các xã vùng cao, vùng sâu, miền núi biên giới, xây dựng các tuyến đường vành đai biên giới.
– Trong thiết kế, thi công các công trình giao thông vận tải, đặc biệt là các tuyến vận tải chiến lược, phải tính đến cả nhu cầu hoạt động thời bình và thời chiến, nhất là cho các phương tiện cơ động của lực lượng vũ trang có trọng tải và lưu lượng vẩn chuyển lớn, liên tục. Ở các đầu nút giao thông, những nơi dự kiến có thể đánh phá trong chiến tranh, phải có kế hoạch làm nhiều đường vòng tránh. Bên cạnh các cây cầu lớn qua sông, phải làm sẵn những bến phà, bến vượt ngầm. Ở những đoạn đường có địa hình cho phép thì làm đường hầm xuyên núi, cải tạo các hang động sẵn có dọc hai bên đường làm kho trạm, nơi chú quân khi cần thiết.
– Phải thiết kế, xây dựng lại hệ thống đường ống dẫn dầu Bắc-Nam, chôn sâu bí mật, vòng tránh trên từng cung đoạn, bảo đảm hoạt động an toàn cả thời bình và thời chiến.
– Ở các vùng đồng bằng ven biển, đi đôi với phát triển hệ thống đường bộ cần chú trọng cải tạ, phát triển đường sông, đường biển, xây dựng các cảng sông, biển, đảm bảo đi lại, bốc dỡ thuận tiện.
– Việc mở rộng nâng cấp sân bay cần chú ý cả sân bay ở tuyến sau, ở sâu trong nội địa, sân bay dã chiến và có kế hoạch sử dụng đường cao tốc làm các băng cất hạ cánh máy bay khi cần thiết trong chiến tranh. – Trong một số tuyến đường xuyên Á, sau này được xây dựng qua Việt Nam ở các nơi cửa khẩu, nơi tiếp giáp các nước bạn phải có kế hoạch xây dựng các khu vực phòng thủ, kiên cố, vững chắc, đề phòng khả năng địch sử dụng các tuyến đường này khi tiến công xâm lược nước ta với quy mô lớn. – Xây dựng kế hoạch động viên giao thông vận tải cho thời chiến.
Trong bưu chính viễn thông:
Phải kết hợp chặt chẽ giữa ngành bưu điện quốc gia với ngành thông tin quân đội, công an để phát triển hệ thống thông tin quốc gia hiện đại, đảm bảo nhanh chóng, chính xác, an toàn thông tin liên lạc phục vụ lãnh đạo chỉ huy, điều hành đất nước trong mọi tình huống, cả thời chiến và thời bình.
– Có phương án thiết kế, xây dựng và bảo vệ hệ thống thông tin liên lạc một cách vững chắc trong mọi tình huống.
– Các phương tiện thông tin liên lạc và điện tử cần phải đảm bảo tính bí mật và có khả năng chống nhiễu cao, phong chống chiến tranh thông tin điện tử của địch.
– Khi hợp tác với nước ngoài về xây dựng, mua sắm các thiết bị thông tin điện tử phải cảnh giác cao, lựa chọn đối tác, có phương án chống âm mưu phá hoại của địch.
– Xây dựng kế hoạch động viên thông tin liên lạc: chuẩn bị nhân lực và vật lực ngay từ trong thời bình phải tổ chức luyện tập chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu cao để có thể huy động cho nhiệm vụ quốc phòng – an ninh cần thiết.
Trong xây dựng cơ bản:
Đây là lĩnh vực sẽ có nhiều phát triển cả quy mô và trình độ trong quá rình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những công trình này không dễ gì phá đi làm lại, cho nên việc thực hiện kết hợp trong ngành xây dựng phải được tiến hành ngay từ đầu, từ khảo sát điều tra, thiết kế, quy hoạch dự án đầu tư đến khi thi công xây dựng.
– Khi xây dựng bất kỳ công trình nào, ở đâu, quy mô nào cũng phải tính đến yếu tố tự bảo vệ và có thể chuyển hóa phục vụ cho cả quốc phòng, an ninh, cho phòng thủ tác chiến và phong thủ dân sự.
– Khi xây dựng các thành phố đô thị, gắn liền với các khu vực phòng thủ đại phương, phải xây dựng công trình ngầm (nhà cao tầng có tầng ngầm, giao thông có đường giao thông ngầm).
– Khi xây dựng các khu công nghiệp tập trung, các nhà máy, các xí nghiệp lớn, quan trọng đều phải tính đến khả năng bảo vệ và di dời khi cần thiết. Nếu điều kiện cho phép, phải biết tận dụng địa hình, địa vật sẵn có để tăng tính bảo vệ cho công trình. Hạn chế xâm phạm các địa hình có giá trị về phòng thủ quân sự, quốc phòng, bảo vệ tổ quốc.
– Đối với các xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, cần kết hợp trong nghiên cứu sáng chế, chế tạo vật liệu siêu bền, có khả năng chống xuyên, chống mặn, chống bức xạ, dễ vận chuyển phục vụ xây dựng các công trình phong thủ, công sự trận dịa của lực lượng vũ trang và của khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố.
– Khi cấp phép đầu tư xây dựng cho các đối tác nước ngoài, phải có sự tham gia ý kiến của cơ quan quân sự có thẩm quyền.
Trong khoa học và công nghệ, giáo dục:
Đây là lĩnh vực đóng vai trò là nền tảng, động lực, là quốc sách hàng đầu đối với sự phát triển của quốc gia. Vì vậy, sự kết hợp là tất yếu, không chỉ là vấn đề cơ bản lâu dài mà còn là vấn đề cấp bách hiện nay.
Nội dung kết hợp cần tập trung vào:
– Phải phối hợp chặt chẽ và toàn diện hoạt động giữa các ngành khoa học và công nghệ then chốt của cả nước và các ngành khoa học của quốc phòng, an ninh trong việc hoạch định chiến lược nghiên cứu phát triển và quản lí sử dụng phục vụ cho cả xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
– Nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân có đề tài khoa học, dự án công nghệ và sản xuất các sản phẩm có ý nghĩa vừa phục vụ nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vừa phục vụ nhu cầu quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, có chính sách đầu tư thỏa đáng cho lĩnh vực nghiên cứu khoa học quân sự, khoa học xã hội nhân văn quân sự, khoa học, khoa học kĩ thuật quân sự.
– Coi trọng giáo dục bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài của đất nước, đáp ứng cả sự nghiệp xây dựng phát triển kinh tế xã hội, cả quốc phòng – an ninh. Thực hiện có hiệu quả công tác quốc phòng – an ninh cho các đối tượng đặc biệt là trong các trường thuộc hệ giáo dục quốc gia.
Trong lĩnh vực y tế:
- Phối hợp, kết hợp chặt chẽ giữa ngành y tế dân sự với y tế quân sự trong nghiên cứu, ứng dụng, trong đào tạo nguồn nhân lực, khám chữa bệnh cho nhân dân, bộ đội và cho người nước ngoài.
- Xây dựng mô hình quân dân y kết hợp trên các địa bàn, đắc biệt là ở vùng núi, biên giới, biển đảo.
- Xây dựng kế hoạch động viên y tế dân sự cho quân sự khi có chiến tranh xảy ra.
- Phát huy vai trò của y tế quân sự trong phòng chống, khám chữa bệnh cho nhân dân thời bình và thời chiến.
4.4. Kết hợp trong thực hiện nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc
Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc là xuất phát từ mục tiêu, lực lượng và phương thức bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc phòng trong tình hình mới.
Nội dung kết hợp cần chú ý:
– Tổ chức biên chế và bố trí lực lượng vũ trang phải phù hợp với điều kiện kinh tế và phù hợp với nhu cầu phòng thủ đất nước.
– Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật trong huấn luyện, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. – Khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của quân đội, công an cho phát triển kinh tế xã hội. Xây dựng, phát triển các khu kinh tế quốc phòng, các khu quốc phòng kinh tế trên các địa bàn vùng núi biên giới, giúp đỡ nhân dân địa phương ổn định sản xuất, đời sống, phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh trên địa bàn. Tận dụng khả năng của công nghiệp quốc phòng trong thời bình để sản xuất hàng hóa dân sự phục vụ dân sinh và xuất khẩu. Thành lập các tổ, đội công tác trên từng lĩnh vực đưa về giúp đỡ các xã vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng cũ phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh…
– Phát huy tốt vai trò tham mưu của các cơ quan quân sự, công an các cấp trong việc thẩm định, đánh giá các dự án đầu tư, nhất là các dự án đầu tư có vốn nước ngoài.
4.5. Kết hợp trong hoạt động đối ngoại
Mục tiêu chung của mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế là giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi để xây đựng và bảo vệ Tổ quốc; tận dụng ngoại lực, phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế, bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc và an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.
Sự phối hợp giữa hoạt động đối ngoại với kinh tế, quốc phòng, an ninh là một trong những nội dung cơ bản của chủ trương đối ngoại trong thời kỳ mới. Đó là sự cụ thể hóa quan điểm kết hợp giữa phát triển kinh tế xã hội và giữ vững an ninh quốc gia trong xu thế toàn cầu hóa, sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Việc mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế với kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, quốc phòng, quân sự của nước ta với các nước và cùng vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực phải hướng vào việc phục vụ kinh tế trong nước; đồng thời phải giữ vững nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong mở rộng quan hệ đối ngoại.
Nội dung kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh trong lĩnh vực đối ngoại cần tập trung vào các lĩnh vực sau:
– Mở rộng hoạt động đối ngoại phải quán triệt và thực hiện tốt nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc: giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hòa bình.
– Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, phải kết hợp từ khâu lựa chọn đối tác. Phải lựa chọn đối tác có ưu thế chế ngư cạnh tranh với các thế lực mạnh bên ngoài, làm hạn chế sự chống phá của các thế lực thù địch. – Kết hợp trong việc phân bổ đầu tư vào ngành nào, địa bàn nào có lợi cho phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh của quốc gia. Khắc phục tình trạng chỉ thấy lợi ích kinh tế trước mắt mà không tính đến lợi ích lâu dài và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
– Kết hợp trong xây dựng và quản lí các khu chế xuất, các đặc khu kinh tế liên doanh, liên kết đầu tư với nước ngoài, bảo vệ chủ quyền an ninh đất nước, chú trọng xây dựng các đoàn hội, lực lượng tự vệ trên cơ sở Nhà nước có pháp luật quy định rõ ràng. Đồng thời phải chú trọng bồi dưỡng ý thức tự tôn dân tộc, tinh thần cảnh giác đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia cho cán bộ, nhân viên là người Việt Nam làm việc trong các cơ sở đối ngoại và kinh tế đối ngoại.
– Phát huy vai trò của cán bộ, nhân viên các đại sứ quán, lãnh sự quán của nước ta ở nước ngoài trong việc quảng bá sản phẩm hàng hóa, truyền thống Việt Nam; đông thời nắm vững đường lối đối ngoại, đường lối quân sự của nước ngoài cung cấp tình hình giúp Đảng, Nhà nước hoạch định chính sách đối ngoại đúng đắn.
5. Một số giải pháp chủ yếu ở nước ta
5.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý Nhà nước của chính quyền các cấp trong việc thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh:
Vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng trong việc kết hợp được thể hiện ở chỗ:
– Thường xuyên nắm vững chủ trương đường lối của Đảng, kịp thời đề ra những quyết định lãnh đạo ngành, địa phương mình, thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh một cách đúng đắn.
– Gắn chủ trương lãnh đạo với tăng cường kiểm tra việc thực hiện của chính quyền, đoàn thể các tổ chức kinh tế thực hiện chủ trương đường lối về kết hợp phát triển kinh tế và tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh.
– Tổ chức tốt việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để bổ sung chủ trương và chỉ đạo thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh ở ngành, địa phương thuộc phạm vi lãnh thổ cấp ủy đảng.
Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền các cấp trong kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh phải:
– Từng cấp phải làm đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
– Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các quy hoạch, kế hoạch kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh ở ngành, bộ, địa phương cơ sở của mình dài hạn và hằng năm.
– Đổi mới nâng cao quy trình, phương pháp quản lý, điều hành của chính quyền các cấp từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch, nắm tình hình, thu thập xử lý thông tin, định hướng hoạt động, tổ chức hướng dẫn chỉ đạo cấp dưới và kiểm tra ở mọi khâu, mọi bước của quá trình thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh ở ngành, địa phương mình.
5.2. Bồi dưỡng nâng cao kiến thức kinh nghiệm kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố QP-AN cho các đối tượng:
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu và là đòi hỏi cấp thiết với cán bộ và nhân dân cả nước ta hiện nay.
– Đối tượng bồi dưỡng: phải phổ cập kiến thức quốc phòng – an ninh cho toàn dân nhưng trước hết phải tập trung vào đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp, các bộ, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, cơ sở.
– Nội dung bồi dưỡng: phải căn cứ vào đối tượng, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để lựa chọn nội dung, chương trình bồi dưỡng cho phù hợp và thiết thực nhằm nâng cao cả kiến thức, kinh nghiệm và năng lực thực tiễn sát với cương vị đảm nhiệm với từng loại đối tượng và quần chúng nhân dân.
– Hình thức bồi dưỡng: phải kết hợp bồi dưỡng tại trường và tại chức, kết hợp lí thuyết và thực hành. Thông qua sinh hoạt chính trị, qua các cuộc diễn tập thực nghiệm, thực tế ở các Bộ, ngành, địa phương cở sở để nâng cao hoàn thiện sự hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộn và của toàn dân, toàn quân về kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh trong tình hình mới.
5.3. Xây dựng chiến lược tổng thể kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong thời kỳ mới
Thực tiễn cho thấy, sự vận dụng tính quy luật kinh tế, quốc phòng, an ninh và quán triệt quan điểm kết hợp của Đảng đã đề ra còn nhiều mâu thuẫn và bất cập do thiếu định hướng chiến lược cơ bản ở tầm vĩ mô và vi mô. Vì vậy, muốn kết hợp ngay từ đầu và trong suốt quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách cơ bản và thống nhất trên phạm vi cả nước và từng địa phương, phải tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh các quy hoạch và kế hoạch chiến lược tổng thể quốc gia về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại một cách có hiệu lực, hiệu quả.
Trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch chiến lược tổng thể về kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong thời kỳ mới, phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương từ khâu khảo sát, đánh giá các nguồn lực (cả bên trong và bên ngoài). Trên cơ sở đó xác định mục tiêu, phương hướng phát triển và đề ra các chính sách đúng đắn, như: chính sách khai thác các nguồn lực; chính sách đầu tư và phân bổ đầu tư; chính sách điều động nhân lực, bố trí dân cư; chính sách ưu đãi khoa học và công nghệ hữu dụng…
5.4. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách có liên quan đến thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh trong tình hình mới.
Mọi chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta có liên quan đến kết hợp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng – an ninh đều phải được thể chế hóa thành luật pháp, pháp lệnh, nghị định, văn bản dưới luật một cách đồng bộ, thống nhất để quản lý và tổ chức thực hiện nghiêm túc có hiệu lực và hiệu quả trong cả nước.
Đảng và Nhà nước phải có chính sách khai thác các nguồn lực phải có đầu tư cả trong và ngoài nước để thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh; nhất là đối với các công trình trọng điểm, những địa bàn chiến lược trọng yếu như miền núi biên giới và hải đảo.
Việc xác lập cơ chế chính sách, đảm bảo ngân sách cho kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh nhân dân. Các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, các đoàn thể xã hội đều phải có nghĩa vụ chăm lo cho sự nghiệp xây dựng dất nước cũng như sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Việc phân bổ ngân sách đầu tư cho kết hợp phát triển kinh tế xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh phải theo hướng tập trung cho những mục tiêu chủ yếu, những công trình có tính lưỡng dụng cao đáp ứng cho cả cho phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng – an ninh cả trước mắt và lâu dài.
Phải có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với các tổ chức xã hội, cá nhân, các nhà đầu tư (cả trong và ngoài nước) có các đề tài khoa học, các dự án công nghệ sản xuất, xây dựng có ý nghĩa lưỡng dụng hóa cao phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
5.5. Củng cố kiện toàn và phát huy vai trò tham mưu của cơ quan chuyên trách quốc phòng, an ninh các cấp
Thực hiện triển khai Nghị định 168/2018/NĐ-CP ngày 28/12/2018 của Chính phủ về Công tác quốc phòng ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ và các địa phương. Cần nghiên cứu bổ sung mở rộng thêm chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách quản lý Nhà nước về quốc phong, an ninh nói chung và về kết hợp phát triển kinh tế – xã hội gắn với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh nói riêng trong thời kỳ mới.
Kết hợp chặt chẽ giữa chấn chỉnh, kiện toàn tổ chức với chăm lo bồi dưỡng nâng cao năng lực và trách nghiệm của các cơ quan và cán bộ chuyên trách làm tham mưu cho Đảng, Nhà nước về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế – xã hội gắn liên với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh ngang tầm với nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Kết hợp phát triển kinh tễ – xã hội gắn liền với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh là một tất yếu khách quan, một nội dung quan trọng trong đường lối phát triển đất nước của Đảng ta, nhằm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
Việc kết hợp được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế và có sự phối hợp của các ngành, các cấp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh.
(Nguồn tài liệu: Học phần Đường lối quốc phòng và an ninh của Đảng cộng sản Việt Nam)