Thời đại là gì? Những nội dung cơ bản của thời đại ngày nay; tính chất, mâu thuẫn và các xu thế vận động chủ yếu của thời đại ngày nay.
1. Khái niệm thời đại
– Thời đại là một khái niệm khoa học dùng để phân kỳ lịch sử xã hội, phân biệt những nấc thang phát triển của xã hội loài người.
Tuy nhiên ở mỗi ngành khoa học, mỗi phương diện công tác khác nhau có cách gọi tên và phân chia thời đại khác nhau.
Dưới góc độ của môn chủ nghĩa xã hội khoa học, chúng ta chỉ nghiên cứu thời đại về mặt chính trị – xã hội chứ không nghiên cứu ở những lĩnh vực khác.
– Cơ sở để phân chia lịch sử xã hội loài người thành các thời đại:
+ Căn cứ vào sự xuất hiện của một hình thái kinh tế – xã hội mới
Lúc nào có một hình thái kinh tế – xã hội mới ra đời, nó sẽ mở ra một thời đại mới cho loài người. Loài người có 5 hình thái kinh tế – xã hội tương ứng với nó có 5 thời đại lịch sử.
+ Căn cứ vào sự thay đổi của vị trí trung tâm của giai cấp trong xã hội
Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, một hình thái kinh tế – xã hội có một giai cấp giữ vai trò thống trị đứng ở vị trí trung tâm của thời đại đó. Giai cấp ở vị trí trung tâm phải là giai cấp tiên tiến, đại diện cho xu hướng vận động của lịch sử, có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân đấu tranh xoá bỏ chế độ cũ, thiết lập chế độ mới và mở ra thời đại mới.
2. Nội dung cơ bản của thời đại ngày nay
Trong lý luận ngày nay, chúng ta đang sử dụng những khái niệm đồng nghĩa: Thời đại ngày nay, thời đại mới, thời đại chúng ta … mà nội dung cơ bản của thời đại ngày nay đó là:
– Theo quan điểm của V.I. Lênin: Nội dung của thời đại mới là xoá bỏ giai cấp tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa, đồng thời thiết lập những cơ sở của xã hội mới là xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Đây là quá trình lịch sử lâu dài, bắt đầu từ Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, sau đó là những cuộc cách mạng ở nhiều nước khác trên thế giới.
– Dựa trên quan điểm của V.I. Lênin, Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân trong năm 1957 và năm 1960 đã xác định nội dung căn bản của thời đại chúng ta là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới được mở đầu từ cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại.
Từ đó đến nay, mấy chục năm trôi qua và tình hình thế giới có nhiều biến đổi, đặc biệt là sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, song tính chất và nội dung của thời đại vẫn không thay đổi – vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, vì rằng:
+ Chủ nghĩa xã hội tuy đang thoái trào, bị sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu mà nguyên nhân cơ bản là do sự sai lầm chủ quan trong đường lối lãnh đạo của các Đảng Cộng sản, nhưng bản chất của chủ nghĩa xã hội vẫn tốt đẹp, ưu việt nên nó là mô hình mà nhân loại lựa chọn và đi tới.
+ Chủ nghĩa tư bản tuy đang phát triển và cố thích nghi để phát triển nhưng bản chất của nó vẫn là xã hội có áp bức, bóc lột và bất công nên nó không phải là tương lai của xã hội loài người, không phải là mô hình mà nhân loại lựa chọn và đi tới như Đảng ta từng khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách – Lịch sử thế giới hiện trải qua những bước quanh co; song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử” (Cương lĩnh Đại hội VII – ĐCSVN, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 8)
– Sự thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga là cột mốc mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản vì:
+ Sau Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, chủ nghĩa xã hội đã từ lý luận trở thành thực tiễn. Hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời; đối lập và phủ định hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa, đưa con người thoát khỏi chế độ nô lệ làm thuê trở thành con người tự do chân chính.
+ Chiều hướng phát triển tất yếu, trục xuyên suốt của sự vận động lịch sử từ sau Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa, thiết lập và từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
+ Từ sau Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng nòng cốt đi đầu trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
+ Sau Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong phạm trù cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhiều nước sau khi giành được độc lập dân tộc đã đi lên con đường xã hội chủ nghĩa.
3. Tính chất của thời đại ngày nay
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga đã mở đầu một thời đại mới mà nội dung cơ bản và tính chất của nó đã được xác định đó là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Tính chất ấy của thời đại cho đến nay vẫn không hề thay đổi. Dù chủ nghĩa tư bản vẫn còn tồn tại và còn những khả năng phát triển nhưng về nguyên tắc, thời đại của chủ nghĩa tư bản đã trở nên lỗi thời về mặt lịch sử; thời đại đấu tranh cho sự ra đời, phát triển và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đã bắt đầu, thay thế cho thời đại tư sản một cách tất yếu. Song cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa cái cũ và cái mới; giữa những lực lượng cách mạng và phản cách mạng đang diễn ra gay go, quyết liệt trên phạm vi toàn thế giới. Cuộc đấu tranh này đang chi phối toàn bộ quá trình vận động của lịch sử nhân loại và diễn ra trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, tư tưởng . ..
4. Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay
Hiện nay, trên phạm vi thế giới có 4 mâu thuẫn cơ bản sau:
– Thứ nhất: Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, nổi cộm nhất của thời đại, mâu thuẫn giữa hai chế độ chính trị đối lập. Nó xuyên suốt thời đại từ khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thành công cho đến lúc chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản được xác lập trên phạm vi toàn thế giới, chủ nghĩa tư bản hòan toàn bị thủ tiêu. Thực tiễn lịch sử từ sau Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga đến nay đã xác nhận mâu thuẫn này.
Sự vận động và giải quyết mâu thuẫn này có tác động, chi phối tới những mâu thuẫn còn lại của thời đại. Mặc dù ngày nay, một số nước xã hội chủ nghĩa đã có quan hệ ngoại giao, quan hệ kinh tế và nhiều quan hệ khác với các nước tư bản chủ nghĩa. Điều đó không có nghĩa là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản dịu đi hoặc không còn nữa. Trái lại, mâu thuẫn giữa hai chế độ này đang biểu hiện dưới dạng mới là vừa hợp tác, vừa đấu tranh, trong đấu tranh có hợp tác trên nhiều phương diện.
– Thứ hai: Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân; giữa tư bản và lao động
Đây là mâu thuẫn nội tại trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa, trong đó mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cơ bản nhất. Chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn còn tồn tại thì mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản trong xã hội này vẫn là khách quan vì giai cấp tư sản là giai cấp thống trị, nắm tư liệu sản xuất, còn giai cấp công nhân là giai cấp làm thuê cho giai cấp tư sản. Mặc dù hiện nay do sự đấu tranh của giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ, cùng với năng suất lao động cao do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật – công nghệ tạo ra, chủ nghĩa tư bản có những điều chỉnh trong chính sách xã hội, tăng phúc lợi xã hội. Song phân hoá giàu nghèo vẫn diễn ra quyết liệt. Sự phân hoá đó càng làm cho mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản chủ nghĩa vẫn tồn tại và gay gắt.
– Thứ ba: Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc
Mâu thuẫn này được nảy sinh khi chủ nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, biến các nước kém phát triển về kinh tế, văn hoá nhưng lại giàu về tài nguyên khoáng sản và dồi dào sức lao động thành hệ thống thuộc địa và phụ thuộc của chúng. Bằng những biện pháp tinh vi, các nước tư bản đang bóc lột các nước thuộc địa một cách thậm tệ, làm cho khoảng cách giữa các nước giàu và các nước nghèo ngày càng gia tăng. Nhiều nước hiện nay không còn khả năng trả nợ. Tình trạng đói nghèo của các nước kinh tế chậm phát triển là nguyên nhân dẫn tới những xung đột dân tộc, tôn giáo ở những nước này gia tăng.
Như vậy, hiện nay các nước chậm phát triển, một mặt phải tiến hành đấu tranh chống lại sự can thiệp và xâm lược bằng quân sự, bằng kinh tế, bằng văn hoá của các nước phương Tây, mặt khác phải đấu tranh chống lại nghèo đói, bệnh tật, lạc hậu.. Tình trạng trên làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc ngày càng tăng.
– Thứ tư: Mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau
Mặc dù các nước tư bản chủ nghĩa luôn có sự thống nhất với nhau về bản chất chế độ, về lợi ích giai cấp, về mục tiêu chống phá chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng, nhưng quan hệ giữa các nước tư bản chủ nghĩa, giữa các tập đoàn tư bản luôn là quan hệ liên minh nhằm tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Song, giữa các nước tư bản chủ nghĩa có những mâu thuẫn về lợi ích quốc gia, lợi ích của mỗi tập đoàn tư bản, do vậy, luôn diễn ra những cuộc đấu tranh lúc ngấm ngầm, lúc công khai.
Mâu thuẫn trên là nguyên nhân nổ ra hai cuộc chiến tranh thế giới. Hiện nay mâu thuẫn này được thể hiện thông qua mâu thuẫn giữa ba trung tâm tư bản lớn: Mỹ – Nhật – Tây Âu.
Việc xác định đúng những mâu thuẫn của thời đại ngày nay giúp chúng ta từng bước giải quyết mâu thuẫn và đưa lịch sử vận động, đi lên.
5. Những đặc điểm cơ bản và xu thế vận động chủ yếu của thời đại ngày nay
a. Những đặc điểm cơ bản của thời đại ngày nay
Đặc điểm 1: Đặc điểm nổi bật của thời đại ngày nay là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội đang diễn ra trên phạm vi toàn thế giới.
- Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản vẫn diễn ra quyết liệt. Chủ nghĩa xã hội vẫn là đối trọng chính của chủ nghĩa tư bản. Do vậy, kể từ khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, giai cấp tư sản đã tìm mọi biện pháp để chia rẽ, phá hoại phong trào công nhân và nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội cả trên lý luận và thực tiễn.
- Nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới mới đã bị đẩy lùi nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo xảy ra gay go, quyết liệt và diễn biến phức tạp trên thế giới, cuộc chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
Đặc điểm 2: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang gây ra những thay đổi to lớn trên thế giới.
Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang phát triển hết sức mạnh mẽ, với trình độ ngày càng cao, tạo ra điều kiện tăng nhanh năng lực sản xuất. Trung bình cứ 10 – 15 năm của cải nhân loại tăng gấp đôi. Từ đó tạo ra những thay đổi trong nhiều quan niệm của đời sống xã hội từ kinh tế đến chính trị, văn hoá . . . đồng thời còn tạo ra xu hướng toàn cầu hoá trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, dẫn đến sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng; khoảng cách sự phân hoá giàu, nghèo giữa các nước ngày càng lớn. Hiện nay, thế giới đang bước vào nền kinh tế tri thức, và vòng đua của nhân loại trong thế kỷ 21 là vòng đua vào nền kinh tế tri thức.
Đặc điểm 3: Sự xuất hiện những vấn đề toàn cầu đòi hỏi sự hợp tác giải quyết của các quốc gia.
Hiện nay, nhân loại đang đứng trước những vấn đề có tính toàn cầu, đó là: Tình trạng bùng nổ dân số ở các nước nghèo; sự nghèo đói ở các nước chậm phát triển; tình trạng ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên đang đe doạ cuộc sống của hàng tỉ người trên trái đất. Tình trạng buôn lậu ma tuý, buôn lậu quốc tế, bệnh tật hiểm nghèo đang có xu hướng gia tăng gây hậu quả nặng nề cho nhiều quốc gia trên thế giới.
Vì vậy, đòi hỏi các quốc gia trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, sắc tộc, tôn giáo đều phải cùng nhau hợp lực để giải quyết có hiệu quả những vấn đề nêu trên nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của thế giới.
Đặc điểm 4: Khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang là khu vực phát triển năng động, khả năng phát triển với tốc độ cao, đồng thời cũng đang tiềm ẩn một số nhân tố có nguy cơ gây mất ổn định.
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương là nơi tài nguyên chưa bị khai thác nhiều, giá lao động rẻ tạo điều kiện cho các nước trong khu vực thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Với thế mạnh nông nghiệp nhiệt đới, giúp cho các nước mở rộng giao lưu quốc tế, tranh thủ công nghệ hiện đại. Song ở khu vực này chứa đựng những nhân tố gây ra mất ổn định vì khu vực này bao gồm nhiều nền văn hoá, có nhiều hệ tư tưởng, nhiều tôn giáo, nhiều nguồn vốn nước ngoài đầu tư. Do vậy, cũng tiềm ẩn nguy cơ gây ra xung đột, mất ổn định.
b. Những xu thế vận động chủ yếu của thời đại ngày nay
Thứ nhất, hòa bình, ổn định để cùng phát triển
Từ hậu quả của các cuộc chiến tranh thế giới, các quốc gia đều nhận thấy tầm quan trọng của hòa bình, ổn định để phát triển. Bởi không nước nào phát triển được trong điều kiện có chiến tranh. Do vậy, hòa bình đã trở thành nhu cầu bức xúc của các dân tộc trên thế giới. Có hòa bình mới có điều kiện thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, mới huy động được sức người, sức của trong nhân dân để phát triển đất nước. Nên phần lớn các nước trên thế giới đã dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, qua đó mà phát triển tiềm lực của mình, tạo điều kiện giữ gìn hòa bình trong nước và trên thế giới.
Thứ hai, gia tăng hợp tác giữa các quốc gia
Ngày nay, trong xu hướng toàn cầu hoá, không một quốc gia nào có thể phát triển được nếu không có sự hợp tác. Do vậy, hợp tác là xu thế tất yếu trên thế giới hiện nay. Hình thức hợp tác hiện nay rất đa dạng: hợp tác song phương; hợp tác khu vực; hợp tác quốc tế. Các tổ chức quốc tế như Liên hiệp quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế, Tổ chức thương mại thế giới… ngày càng tham gia nhiều vào đời sống kinh tế, đời sống chính trị của các nước. Lĩnh vực hợp tác giữa các nước ngày càng đa dạng: Hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật, hợp tác thương mại, hợp tác nghiên cứu chinh phục vũ trụ và cả hợp tác chính trị.
Thứ ba, các dân tộc ngày càng nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự cường, đấu tranh chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hoá dân tộc
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại, của phong trào cách mạng trên thế giới, của phương tiện thông tin; các dân tộc ngày càng ý thức được những quyền lợi dân tộc cơ bản của mình như: Quyền độc lập dân tộc, quyền tự quyết chế độ chính trị, quyền lựa chọn con đường phát triển… mặt khác, các nước lớn thường ỷ lại vào thế mạnh kinh tế và quân sự của mình để chi phối, lấn át, áp bức và xâm lược các nước nhỏ. Điều đó dẫn tới những cuộc đấu tranh của các dân tộc đòi hòa bình và độc lập dân tộc.
Thứ tư, các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và công nhân kiên trì đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ và phát triển
Hiện nay, các nước xã hội chủ nghĩa tuy đang gặp khó khăn rất lớn về kinh tế, nhưng các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế vẫn là lực lượng đi đầu, nòng cốt trong cuộc đấu tranh chống lại những thế lực gây chiến, bảo vệ hòa bình thế giới, phấn đấu cho sự phát triển và tiến bộ của nhân loại.
Thứ năm, các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa hợp tác, vừa đấu tranh cùng tồn tại trong hòa bình
Các nước xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế phát triển thấp, có trình độ khoa học kỹ thuật chưa cao, do vậy, cần tranh thủ khoa học công nghệ, kỹ thuật tiên tiến cuả các nước tư bản và kể cả nguồn vốn để phát triển sản xuất. Ngược lại, các nước tư bản thấy được tiềm năng to lớn về đầu tư sản xuất, mở rộng kinh doanh với các nước xã hội chủ nghĩa nên sự hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa là tất yếu.
Song sự đối lập giữa lợi ích và hệ tư tưởng giữa hai chế độ xã hội này không phải vì thế mà mất đi. Cho nên giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vừa hợp tác vừa đấu tranh là tất yếu.
Muốn thực hiện được điều đó, các Đảng Cộng sản phải có đường lối cách mạng, có chiến lược, sách lược đúng đắn, phải tìm ra nhiều hình thức đấu tranh, phải tiếp tục bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin cho phù hợp với thời đại ngày nay.