Trang chủ Khoa học Chính trị Cách mạng xã hội chủ nghĩa: Nguyên nhân, mục tiêu, nội dung và sự vận dụng ở Việt Nam

Cách mạng xã hội chủ nghĩa: Nguyên nhân, mục tiêu, nội dung và sự vận dụng ở Việt Nam

by Ngo Thinh
Published: Last Updated on 796 views

1. Nguyên nhân, điều kiện khách quan, chủ quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa

1.1. Khái niệm về cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo, nhắm xoá bỏ chế độ xã hội cũ, nhất là chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội để tiến lên chủ nghĩa cộng sản.

Tuy nhiên, cách mạng xã hội chủ nghĩa có lúc được nghiên cứu theo nghĩa rộng, có lúc được nghiên cứu theo nghĩa hẹp.

– Theo nghĩa hẹp: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng về chính trị. Trong đó quần chúng nhân dân lao động vùng dậy dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân để giành lấy chính quyền, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản (nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động) tạo tiền đề cho việc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế, văn hoá, tư tưởng ở giai đoạn tiếp theo.

– Theo nghĩa rộng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng xã hội. Đó quá trình cải biến một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng … dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản.

Như vậy, theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả việc giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

cách mạng xã hội chủ nghĩa là gì1.2. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, nguyên nhân sâu xa của cuộc cách mạng xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó và tất yếu phải thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời bằng quan hệ sản xuất mới tiên tiến hơn. Do vậy, dưới chủ nghĩa tư bản, nhất là khi máy hơi nước ra đời làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, ngày càng mang tính chất xã hội hoá cao; dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất mang tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.

Biểu hiện của mâu thuẫn trên, trong lĩnh vực kinh tế là tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng doanh nghiệp ngày càng tăng với tính tổ chức của sản xuất toàn xã hội do tính cạnh tranh của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa gây ra.

Quy luật cạnh tranh, tính chất vô chính phủ trong sản xuất dẫn tới khủng hoảng thừa, buộc một số doanh nghiệp phải ngừng sản xuất, khi sản xuất đình trệ, công nhân không có việc làm, họ đã đứng lên đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Để khắc phục tình trạng đó, giai cấp tư sản đã tổ chức ra các Xanhđica, Tờ rớt, Côngxocxiom và nhà nước tư bản ngày càng can thiệp sâu vào kinh tế, bằng việc quốc hữu hoá một số ngành khi khó khăn, tư hữu hoá khi thuận lợi.

Tuy rằng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ tư bản ngày càng gay gắt, nhưng cách mạng xã hội chủ nghĩa không diễn ra một cách tự phát mà phải thông qua hoạt động của con người và những điều kiện khách quan, chủ quan nhất định.

1.3. Những điều kiện khách quan, chủ quan của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn nổ ra và giành thắng lợi, phải có những điều kiện khách quan và chủ quan.

– Những điều kiện khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Những điều kiện khách quan là phải có những mâu thuẫn về kinh tế – xã hội diễn ra gay gắt trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá cao với quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, quyết định nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn kinh tế này đã dẫn đến mâu thuẫn về xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.

Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nền đại công nghiệp phát triển cao dựa trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – kỹ thuật đã hình thành những thành phố lớn, những khu công nghiệp tập trung, làm cho lực lượng sản xuất đạt đến trình độ xã hội hoá cao. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã tạo ra một đội ngũ công nhân ngày càng đông về số lượng và cao về chất lượng. Họ gắn bó hữu cơ với nền sản xuất hiện đại và giữ vai trò quyết định trong việc tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, nhưng của cải đó lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt. Điều đó giúp cho công nhân dễ dàng nhận thấy sự bạo tàn của giai cấp tư sản và họ trở thành kẻ thù của giai cấp tư sản; làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt.

Giai cấp tư sản không chỉ áp bức, bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong nước, mà với lòng tham vô hạn, với khát vọng quyền lực, giai cấp tư sản đã tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược các nước khác, biến những nước này thành thuộc địa của chúng. Điều đó còn làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các nước tư bản với các nước thuộc địa ngày càng trở nên gay gắt.

Những mâu thuẫn trên đã dẫn tới nguy cơ tạo thành cách mạng xã hội và nó đòi hỏi phải được giải quyết bằng cuộc cách mạng xã hội, nhằm xoá bỏ ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, thiết lập một chế độ xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa.

– Những điều kiện chủ quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Những điều kiện khách quan đã tạo ra nguy cơ tạo thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng để cho nguy cơ đó biến thành hiện thực thì phải có những điều kiện chủ quan.

Điều kiện chủ quan có ý nghĩa quyết định nhất là sự trưởng thành của giai cấp công nhân, đặc biệt là khi nó đã có Đảng tiên phong của mình là Đảng Cộng sản. Lúc đó, giai cấp công nhân mới có đủ khả năng điều kiện để đứng ra đảm đương sứ mệnh lịch sử của mình là tổ chức phát động quần chúng nhân dân lao động tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nếu không có điều kiện chủ quan này thì cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn không nổ ra. Bằng chứng là ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay như Mỹ, Nhật, Anh, Pháp . . . Mâu thuẫn kinh tế – xã hội đã có, những giai cấp công nhân và Đảng cộng sản ở những nước đó chưa muốn phát động cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, sự khống chế của giai cấp tư sản ở những nước đó quá chặt chẽ nên cách mạng xã hội chủ nghĩa chưa thể nổ ra được. Điều kiện chủ quan thứ hai là sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác để tạo nên lực lượng khổng lồ, sức mạnh to lớn để đảm bảo cho cách mạng thắng lợi.

2. Mục tiêu, nội dung, động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa

2.1. Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng xã hội, giải phóng con người, đó là mục tiêu cao cả mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Việc thực hiện mục tiêu đó gắn liền với từng giai đoạn của cách mạng xã hội chủ nghĩa:

– Mục tiêu trong giai đoạn thứ nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

– Mục tiêu trong giai đoạn thứ hai của cách mạng xã hội chủ nghĩa là xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng xã hội, giải phóng con người, đưa lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho toàn dân; và một khi xoá bỏ được tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ.

2.2. Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng có nội dung toàn diện trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.

– Trên lĩnh vực chính trị

Nội dung cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị là đưa quần chúng nhân dân lao động từ địa vị nô lệ, làm thuê, bị áp bức bóc lột trở thành người làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội. Muốn thực hiện được nội dung đó, giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản phải dùng bạo lực cách mạng đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, như C. Mác – Ph. Ăngghen nói: “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc” (C. Mác – Ph. Ăngghen: Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, Tr. 623 – 624).

Bước tiếp theo là giai cấp công nhân phải xây dựng một nền dân chủ rộng rãi cho nhân dân, đảm bảo cho nhân dân lao động thực hiện đầy đủ quyền làm chủ về chính trị, tham gia vào công việc quản lý xã hội, quản lý nhà nước, làm cho nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân.

– Trên lĩnh vực kinh tế

Việc giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động mới chỉ là nhiệm vụ quan trọng bước đầu. Nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa phải là phát triển kinh tế; nâng cao năng suất lao động và cải thiện đời sống nhân dân. Nên thực chất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng về kinh tế. Trong Điều lệ Quốc tế I, C. Mác viết: “Bất cứ cuộc cách mạng chính trị nào cũng chỉ là thủ đoạn để giải phóng giai cấp công nhân về mặt kinh tế”. Trong Hệ tư tưởng Đức, ông nói: Xây dựng chủ nghĩa cộng sản về thực chất là xây dựng về kinh tế. Chỉ có giải phóng về kinh tế là cơ sở giải phóng giai cấp công nhân về mặt tinh thần, làm chủ được kinh tế mới làm chủ được mặt tinh thần.

Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế trước hết phải thay đổi vị trí, vai trò của người lao động đối với tư liệu sản xuất. Xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xác lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới những hình thức thích hợp; thực hiện những biện pháp cần thiết gắn người lao động với tư liệu sản xuất. Sau đó phải cải tạo nền sản xuất cũ, lạc hậu thành nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến để đưa năng suất lao động lên cao, nhằm từng bước cải tiện đời sống nhân dân và tạo ra những cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc “Làm theo năng lực, hưởng theo lao động”.

– Trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng

Cách mạng xã hội chủ nghĩa tạo nên sự biến đổi căn bản trong phương thức và nội dung sinh hoạt tinh thần của xã hội theo hướng tiến bộ. Trên cơ sở kế thừa và nâng cao các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, thực hiện việc tiếp thu các giá trị văn hóa tiên tiến của thời đại để thực hiện việc giải phóng những người lao động về mặt tinh thần thông qua việc xây dựng từng bước thế giới quan và nhân sinh quan cộng sản, xây dựng nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C. Mác – Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ” (C. Mác – Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr. 626)

Các nội dung trên diễn ra đồng thời và có quan hệ mật thiết, tác động, thúc đẩy lẫn nhau đưa đến sự thành công của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

2.3. Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động ra khỏi tình trạng áp bức, bóc lột. Do vậy, nó thu hút sự tham gia đông đảo của giai cấp công nhân và tầng lớp nhân dân lao động, tạo thành những động lực to lớn của cách mạng.

Trước hết, đối với giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của nó là Đảng cộng sản, là động lực cơ bản, quan trọng nhất, bởi lẽ, giai cấp công nhân có vai trò quan trọng trong lĩnh vực kinh tế, sản xuất ra nhiều của cải vật chất làm giàu cho xã hội. Mặt khác, giai cấp công nhân đề ra mục tiêu giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bất công, nghèo nàn, lạc hậu đã được các tầng lớp nhân dân hưởng ứng, đi theo tạo thành một sức mạnh tổng hợp. Hơn nữa, giai cấp công nhân với đường lối, chiến lược cách mạng đúng đắn đã đưa cách mạng từng bước đi đến thắng lợi. Do vậy, giai cấp công nhân và chính đảng của nó như là đầu tàu thúc đẩy cả con tàu cách mạng chuyển động đi về đích. Nên thực tế lịch sử cho thấy, khi nào và ở đâu phong trào công nhân vững mạnh, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân sáng suốt thì cách mạng đi lên. Ở đâu phong trào công nhân suy yếu, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân sai lầm thì phong trào cách mạng sẽ gặp khó khăn.

Thứ hai, đối với giai cấp nông dân: Giai cấp nông dân là động lực quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa vì giai cấp nông dân có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân, là lực lượng xã hội to lớn, đông đảo trong dân cư, có khả năng cách mạng to lớn. Trong mỗi giai đoạn của cách mạng, không thể thiếu vai trò của giai cấp nông dân.

Trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, giai cấp công nhân chỉ giành được thắng lợi khi tập hợp được sức mạnh của giai cấp nông dân. C. Mác – Ph. Ăngghen chỉ ra rằng: “Cách mạng vô sản (theo nghĩa hẹp) phải là bản đồng ca của hai giai cấp: công nhân và nông dân. Trong các quốc gia còn tồn tại phổ biến là nông dân, nếu không có được bản đồng ca ấy thì bài đơn ca của giai cấp công nhân sẽ trở thành một bài ca ai điếu.”

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp nông dân là lực lượng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước, đồng thời là lực lượng to lớn bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, là cơ sở xây dựng chính quyền nhà nước vững mạnh.

Thứ ba, đối với tầng lớp trí thức: Trí thức đóng vao trò quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I. Lênin đã từng khẳng định: “Không có trí thức không thể có chủ nghĩa xã hội” Vì rằng, trí thức là những người có công lao chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, phát triển dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước; tham gia xây dựng đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, đưa nó vào trong quần chúng nhân dân. Đặc biệt là trong thời đại ngày nay, khi khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển thì vai trò động lực phát triển xã hội của trí thức lại càng cao. Tuy vậy, trí thức không bao giờ trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng vì họ không đại biểu cho bất kỳ một phương thức sản xuất nào; không có hệ tư tưởng độc lập. Trí thức phục vụ cho giai cấp nào thì mang ý thức hệ của giai cấp đó. Trí thức dưới chủ nghĩa xã hội mạng ý thức hệ của giai cấp công nhân.

3. Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự vận dụng ở Việt Nam

3.1. Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin

– Tư tưởng về cách mạng không ngừng của C. Mác – Ph. Ăngghen

C. Mác và Ph. Ănghen là những người đầu tiên nêu lên tư tưởng về cách mạng không ngừng. Các ông quan niệm rằng: Cách mạng của giai cấp công nhân phát triển không ngừng nhưng phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trong phạm vi một nước cũng như trên toàn thế giới. Mỗi giai đoạn có những yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Tư tưởng đó thể hiện tính giai đoạn và tính liên tục của sự phát triển cách mạng.

Các ông còn chỉ ra rằng trong các quốc gia còn tồn tại chế độ quân chủ, phong trào công nhân chưa đủ mạnh, lúc đầu giai cấp công nhân với tư cách là lực lượng chính trị xã hội độc lập phải chủ động tích cực tham gia vào cuộc cách mạng dân chủ do giai cấp tư sản lãnh đạo để đánh đổ chế độ quân chủ. Sau đó, giai cấp công nhân liên minh với các tầng lớp nhân dân lao động, trước hết là nông dân chuyển sang đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và các thế lực đại diện cho chúng.

Trong lời kêu gọi của Uỷ ban Trung ương gửi Đồng minh những người cộng sản 1850, C. Mác – Ph. Ăngghen viết: “Lợi ích của chúng ta là phải làm cho cách mạng trở thành cách mạng không ngừng, cho đến khi tất cả các giai cấp ít hay nhiều hữu sản đều bị gạt ra khỏi chính quyền nhà nước, cho đến khi chẳng những ở một nước mà ở tất cả mọi nước thống trị trên thế giới, các hội liên hiệp những người vô sản đã tiến bộ đến mức có thể chấm dứt sự cạnh tranh giữa những người vô sản ở các nước đó, và ít nhất là tập trung những lực lượng sản xuất quyết định vào tay mình”. Hay C. Mác còn nói:

“Chủ nghĩa xã hội này là lời tuyên bố cách mạng không ngừng”

– Sự phát triển của V.I. Lênin

Dựa trên tư tưởng cách mạng không ngừng của C. Mác – Ph. Ănghen, căn cứ vào điều kiện lịch sử mới: chủ nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản đã trở thành giai cấp phản động, bỏ rơi ngọn cờ dân chủ, tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược, biến những nước lạc hậu thành thuộc địa của chúng. Trong phong trào công nhân đã xuất hiện chủ nghĩa cơ hội, tư tưởng cách mạng không ngừng của C. Mác – Ph. Ăngghen đã bị họ phủ định, V.I. Lênin đã đấu tranh chống lại những tư tưởng đó và phát triển tư tưởng cách mạng không ngừng của C. Mác – Ph.Ăngghen thành lý luận về sự chuyển biến cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Lenin và cách mạng xã hội chủ nghĩa

Xuất phát từ tình hình nước Nga vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, là nơi tập trung những mâu thuẫn, là khâu yếu nhất trong dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc đã xuất hiện cùng một lúc tiền đề của hai cuộc cách mạng, V.I. Lênin cho rằng: “Giai cấp công nhân Nga phải nắm lấy ngọn cờ cách mạng dân chủ tư sản (hay còn gọi là cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới), tiến hành cách mạng một cách triệt để, thực hiện chuyển biến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa”.

Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới là màn mở đầu, là nhịp cầu để chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới và cách mạng xã hội chủ nghĩa là hai giai đoạn khác nhau nhưng cùng nằm trong một quá trình vận động không ngừng, giữa chúng có sự gắn kết, không có bức tường nào ngăn cách cả. Thắng lợi của cách mạng dân chủ nhân dân tạo tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.

V.I. Lênin còn chỉ ra những điều kiện để thực hiện sự chuyển biến từ cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới lên cách mạng xã hội chủ nghĩa:

– Một là, giai cấp công nhân thông qua chính đảng của mình phải giữ vai trò lãnh đạo trong suốt quá trình cách mạng.

– Hai là, phải củng cố, tăng cường khối liên minh công công vững chắc trong suốt quá trình cách mạng.

– Ba là, chuyên chính dân chủ cách mạng của giai cấp công nhân, nông dân phải chuyển sang thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản.

3.2. Sự vận dụng lý luận cách mạng không ngừng ở Việt Nam

Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin là lý luận soi đường cho sự phát triển cách mạng ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, các nước dân tộc chủ nghĩa, các nước chậm phát triển về kinh tế trong thời đại ngày nay, trong đó có Việt Nam.

– Tính tất yếu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam

Xuất phát từ việc thấm nhuần quan điểm, tư tưởng của C. Mác – Ph. Ăngghen và V.I. Lênin về cách mạng không ngừng, đồng thời căn cứ vào tình hình thực tiễn cách mạng Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là sự áp bức, bóc lột của thực dân phong kiến đối với quần chúng nhân dân lao động vô cùng dã man, tàn bạo; những phong trào đấu tranh theo xu hướng tư sản và phong kiến đều bị thất bại, Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chí Minh đã nhận thức được tính tất yếu lịch sử của con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản (xã hội chủ nghĩa) . Người nói: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức”. Do vậy, người đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, đưa đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03 – 02 – 1930.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời làm cho cách mạng Việt Nam thoát khỏi sự khủng hoảng về đường lối chính trị, sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã kết hợp được hai nhiệm vụ: giải phóng dân tộc bị áp bức và giải phóng giai cấp những người lao động. Trên con đường đó, điều đầu tiên là phải tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân (hay còn gọi là cách mạng giải phóng dân tộc) nhằm tạo tiền đề cho việc chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

– Tính tất yếu chuyển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa

Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau và ở nước ta, khi giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do đó, tính tất yếu của việc chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định ngay trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng ta là: Cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Quan điểm tư tưởng đó lại một lần nữa được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam được trình bày tại Đại hội VII (1991): “Bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta là nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc”.

Những quan điểm tư tưởng trên của Đảng ta là sự vận dụng một cách trung thành, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào quá trình cách mạng Việt Nam; đưa cách mạng Việt Nam tiến lên từng bước vững chắc.

5/5 - (1 bình chọn)

Có thể bạn quan tâm

Lytuong.net – Contact: admin@lytuong.net