Sự hình thành giai cấp công nhân Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược, biến nước ta thành một nước thuộc địa nửa phong kiến, nơi tiêu thụ hàng hóa, khai thác tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt của chúng.
Sau khi đặt được ách thống trị trên toàn bộ nước ta, vào đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp cấu kết với bọn phong kiến tay sai tiến hành khai thác các hầm mỏ, xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, mở các tuyến đường, mở các đồn điền trồng cây công nghiệp,…Từ đó, ở nước ta có một lớp người lao động mới ra đời – đó là những công nhân làm thuê, phần lớn tập trung ở các thành phố, các khu công nghiệp. Năm 1906, nước ta có khoảng 5 vạn công nhân. Đến năm 1924, công nhân đã có 22 vạn người.
Ở nước ta, với hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến thì sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trước hết là phải lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân để giành độc lập dân tộc. Tiếp đến, trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo nhân dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Những đặc điểm, điều kiện để giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Giai cấp công nhân là một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế nên có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế; ngoài ra, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển trong điều kiện cụ thể của dân tộc Việt Nam nên còn có những đặc điểm riêng, ảnh hưởng đến việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam:
– Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước cả giai cấp tư sản Việt Nam, là giai cấp đối kháng trực tiếp với tư bản thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới sự thống trị của thực dân Pháp, một thứ chủ nghĩa tư bản thực lợi không quan tâm mấy đến phát triển công nghiệp, nên giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm.
Mặc dù ra đời muộn, số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp chưa bằng giai cấp công nhân thế giới, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông dân, song giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là giải phóng dân tộc để giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
– Giai cấp công nhân Việt Nam tiếp thu và kế thừa truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc. Giai cấp công nhân khi ra đời vừa chịu nỗi nhục mất nước, vừa bị áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc nên họ có tinh thần cách mạng kiên cường, triệt để, sớm nhận thức được mối quan hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp giải phóng giai cấp, giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.
– Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong điều kiện các giai cấp khác đã bế tắc về con đường cứu nước thì chỉ có giai cấp công nhân mới có khả năng tìm thấy lối thoát cho cách mạng
– Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thành công, mở ra một chế độ xã hội mới trong lịch sử nhân loại, đó là chế dộ xã hội xã hội chủ nghĩa và cùng lúc đó Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước giảỉ phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Đó là yếu tố hết sức quan trọng khích lệ, thúc đẩy giai cấp công nhân Việt Nam đứng lên làm cách mạng để giải phóng dân tộc.
– Phần lớn những người công nhân nước ta vốn xuất thân từ nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, nên có quan hệ mật thiết, tự nhiên với nông dân và đông đảo nhân dân lao động. Chính vì vậy, giai cấp công nhân Việt Nam sớm liên minh với nông dân, tạo thành khối liên minh công – nông và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đảm bảo cho sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong suốt quá trình cách mạng. Đây cũng là điều kiện cần thiết đảm bảo cho cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi.
– Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sau một thời gian ngắn thì Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng Cộng sản đã đem yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, làm cho phong trào công nhân có một bước phát triển nhảy vọt về chất. Giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trở thành lực lượng chính trị độc lập, giành được quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt
– Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc và sớm có Đảng lãnh đạo nên không bị tác động bởi các khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa, cải lương, xét lại, không bị giai cấp tư sản đầu độc về tư tưởng nên luôn luôn đoàn kết, thống nhất trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn địa chủ phong kiến tay sai.
Ngoài những đặc điểm nói trên, thể hiện những ưu điểm của giai cấp công nhân Việt Nam, cho đến nay giai cấp công nhân Việt Nam còn có những hạn chế cần phải khắc phục: Số lượng còn ít, trình độ văn hoá, chuyên môn và nghiệp vụ cũng như khoa học kĩ thuật còn thấp; tư tưởng bảo thủ, chủ quan, cách làm ăn tuỳ tiện, manh mún của người sản xuất nhỏ còn ảnh hưởng khá nặng nề.
Nguyên nhân là do nền công nghiệp nước ta chưa phát triển và thành phần đa số xuất thân từ nông dân. Tuy vậy, những hạn chế trên không thuộc về bản chất nên giai cấp công nhân Việt Nam vẫn có đủ khả năng và điều kiện để đảm đương sứ mệnh lịch sử của mình đối với dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam với việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03 – 02 – 1930. Do hoàn cảnh của Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, làm cho phong trào cách mạng nước ta có một bước nhảy vọt về chất, lên một tầm cao mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, lấy sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm mục đích tối cao của mình.
Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện vai trò lãnh đạo, tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân tộc trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng và lãnh đạo nhân dân Việt Nam hoàn thành từng mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước và đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước nhằm tạo ra bước ngoặt lịch sử, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội, xây dựng nước ta theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Để đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi, để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam coi việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng và nâng cao năng lực lãnh đạo là yêu cầu quan trọng hàng đầu, đảm bảo cho Đảng luôn luôn ngang tầm nhiệm vụ cách mạng. “Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đảm bảo đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành vi chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao. Đảng quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân”.
(Tài liệu tham khảo: Lê Thị Kim Phương, Lương Thị Cảnh, Ngô Văn Quý, Đề cương chi tiết Học phần Chủ nghĩa xã hội khoa học)