Trang chủ Khoa học Chính trị Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là gì? Chức năng, hình thức, bộ máy

Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là gì? Chức năng, hình thức, bộ máy

by Ngo Thinh
Published: Last Updated on 1,7K views

Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là gì? Các đặc trưng cơ bản, chức năng, bộ máy cũng như hình thức của nhà nước XHCN.

1. Tiền đề

Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định rằng, cách mạng vô sản và sự ra đời của nhà nước vô sản là một tất yếu lịch sử. Tính tất yếu đó được quy định bởi mâu thuẫn nội tại giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trong lòng chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc đạt đến mức không thể điều hòa được nữa thì cách mạng vô sản ra đời là một tất yếu lịch sử. Nguyên nhân dẫn đến cách mạng vô sản và sự ra đời của nhà nước vô sản là các tiền đề kinh tế, chính trị và xã hội, tư tưởng nảy sinh trong lòng tư bản chủ nghĩa.

– Tiền đề kinh tế

Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng lực lượng sản xuất ngày càng phát triển đến một trình độ xã hội hóa cao ngay trong lòng chủ nghĩa đế quốc thì những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư đã trở nên mâu thuẫn, không còn phù hợp nữa. Mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt, đòi hỏi phải có cách mạng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và thiết lập nên một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là kiểu quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

–   Tiền đề chính trị – xã hội

Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa biểu hiện về mặt chính trị – xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Tới giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, xuất hiện chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước. Nhà nước tư sản đã tham gia trực tiếp vào một số hoạt động kinh tế, trở thành công cụ trong tay giới tư bản độc quyền, đã sử dụng nhiều phương pháp phản dân chủ được che đậy dưới các hình thức dân chủ. Chính điều này dẫn tới bản chất của nhà nước tư sản ngày càng biến đổi, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trở nên gay gắt.

Mặt khác, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo điều kiện cho giai cấp vô sản phát triển mạnh về số lượng và tính tổ chức kỷ luật. Lúc này giai cấp vô sản trở thành tầng lớp tiến bộ nhất của xã hội, có sứ mệnh dẫn dắt tầng lớp lao động làm cách mạng xóa bỏ nhà nước tư sản. Phong trào đấu tranh diễn ra mạnh mẽ, nhiều nước đã dành được thắng lợi và lựa chọn con đường đi lên xã hội chủ nghĩa. Nhà nước Xô Viết ra đời năm 1917 đã có sức lan tỏa mạnh mẽ tới nhiều nước và có sức ảnh hưởng lớn tới quá trình phát triển của thế giới.

–   Tiền đề tư tưởng

Giai cấp vô sản có vũ khí tư tưởng và lý luận sắc bén là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhận thức đúng đắn các quy luật vận động và phát triển của xã hội. Đó là chủ nghĩa Mác-Lênin. Đây là cơ sở nhận thức lý luận để giai cấp vô sản và tầng lớp lao động đề ra những chủ trương biện pháp tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước kiểu mới.

Trong tiến trình cách mạng, giai cấp vô sản và nhân dân lao động sử dụng bạo lực cách mạng để đập tan bộ máy nhà nước cũ và xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới. Bộ máy nhà nước ấy là công cụ sắc bén để giai cấp vô sản và tầng lớp lao động giữ vững thành quả cách mạng và xây dựng xã hội mới. Như vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cách mạng do giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.

2. Khái niệm “Nhà nước xã hội chủ nghĩa”

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một tổ chức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản của giai cấp công nhân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức trụ cột thể hiện và thực hiện ý chí quyền lực của nhân dân, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân.

3. Đặc trưng của nhà nước Xã hội chủ nghĩa

Nhà nước XHCN được xây dựng trên cơ sở của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, là công cụ để thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản.

Khác với các kiểu nhà nước trước đây, nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc (giống như bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa). Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, bản chất của bất kỳ nhà nước nào trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang bản chất của giai cấp thống trị xã hội (ví dụ: nhà nước dân chủ chủ nô, nhà nước quân chủ phong kiến, nhà nước dân chủ tư sản…). Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa (nhà nước chuyên chính vô sản) do đó trước hết nó mang bản chất giai cấp công nhân. Nhưng giai cấp công nhân lại là giai cấp thuộc nhân dân lao động mà ra, đại biểu phương thức sản xuất mới, hiện đại, gắn với lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và dân tộc.

Dựa vào cơ sở lý luận khoa học của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể đưa ra những đặc trưng cơ bản của nhà nước XHCN như sau:

  • Có nền sản xuất công nghiệp hiện đại:

Chỉ có nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng suất lao động lên cao, tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu về vật chất và văn hóa của nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân. Nền công nghiệp hiện đại đó được phát triển dựa trên lực lượng sản xuất đã phát triển

Ở những nước thực hiện sự quá độ “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội”, trong đó có Việt Nam thì đương nhiên phải có quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại cho Nhà nước

  • Thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu:

Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất của công cuộc cải tạo xã hội theo lập trường của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, không phải xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa.

Chủ nghĩa xã hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu này được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, xóa bỏ dần những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội, làm cho mọi thành viên trong xã hội ngày càng gắn bó với nhau vì những lợi ích căn bản.

  • Tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới:

Quá trình xây dựng Nhà nước XHCN và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một quá trình hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân lao động, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính bản chất và mục đích đó, cần phải tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới phù hợp với địa vị làm chủ của người lao động, đồng thời khắc phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ.

  • Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động:

Nhà nước XHCN bảo đảm cho mọi người có quyền bình đẳng trong lao động sáng tạo và hưởng thụ. Mọi người có sức lao động đều có việc làm và được hưởng thù lao theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Đó là một trong những cơ sở của công bằng xã hội ở giai đoạn này.

  • Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc:

Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thông qua nhà nước, Đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Đây là một “nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn.

  • Giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội:

Mục tiêu cao nhất của Nhà nước XHCN là giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức về kinh tế và nô dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển toàn diện cá nhân, hình thành và phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi người phát huy tính tích cực của mình trong công cuộc xây dựng Nhà nước XHCN. Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa mà xóa bỏ sự đối kháng giai cấp, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người, tình trạng nô dịch và áp bức dân tộc, thực hiện được sự công bằng, bình đẳng xã hội.

Những đặc trưng trên phản ánh bản chất của Nhà nước XHCN, do đó, Nhà nước XHCN là một xã hội tốt đẹp, lý tưởng, ước mơ của toàn thể nhân loại. Những đặc trưng đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, trong quá trình xây dựng Nhà nước XHCN cần phải quan tâm đầy đủ tất cả các đặc trưng này.

4. Chức năng nhà nước Xã hội chủ nghĩa

Các chức năng đối nội

–   Chức năng bảo đảm ổn định chính trị, an ninh, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của công dân.

Chức năng bảo đảm ổn định chính trị, an ninh, an toàn xã hội là chức năng đặc biệt quan trọng của nhà nước XHCN. Nội dung của chức năng này như sau:

  • Thông qua bộ máy cưỡng chế trong khuôn khổ pháp luật, nhà nước XHCN sử dụng nhằm ổn định về mặt chính trị, kiên quyết loại trừ mọi hành vi biểu hiện cản trở sự nghiệp đổi mới và làm sai lệch đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và nhà nước; trấn áp các phần tử phản động có những hành vi chống đối chế độ, xâm phạm quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân,…
  • Nhằm bảo vệ trật tự an toàn xã hội, nhà nước XHCN đã xây dựng pháp luật, đổi mới các cơ quan bảo vệ pháp luật, thực hiện các biện pháp, kết hợp sức mạnh nhà nước với khả năng của xã hội để ngăn ngừa vi phạm và tội phạm…
  • Chức năng bảo vệ quyền và lợi ích cơ bản của công dân là chức năng có ý nghĩa quan trọng của nhà nước XHCN. Bởi việc bảo vệ trật tự xã hội gắn liền với bảo vệ quyền và lợi ích của công dân.
  • Nhà nước XHCN đã ghi nhận quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong pháp luật cũng như thực hiện các cơ chế được quy định trong pháp luật một cách hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân; tạo mọi điều kiện để công dân phát huy các quyền tự do của mình và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm quyền và lợi ích của công dân.

–   Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế

Nhà nước XHCN là tổ chức quyền lực chính trị, đại diện cho ý chí và lợi ích của nhân dân lao động; là người chủ đại diện cho sở hữu toàn dân đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu; có quyền quản lý, kiểm soát việc sử dụng tài sản của quốc gia. Chính vì vậy, chức năng tổ chức và quản lý kinh tế là chức năng cần thiết với nhà nước XHCN. Để thực hiện chức năng này, nhà nước XHCN phải nhận thức đúng đắn quy luật khách quan của nền sản xuất xã hội và nền kinh tế thị trường và phân tích thực trạng kinh tế – xã hội của đất nước và quốc tế. Từ đó, nhà nước XHCN xây dựng một chiến lược đúng đắn và một cơ chế quản lý hợp lý với đội ngũ cán bộ công chức có năng lực quản lý và kinh doanh. Tóm lại, chức năng tổ chức quản lý kinh tế của nhà nước gồm những nội dung sau:

  • Xây dựng chiến lược, chương trình phát triển kinh tế làm định hướng cho nền kinh tế quốc dân phát triển theo định hướng
  • Xây dựng và thực hiện các chính sách tài chính, tiền tệ phù hợp và chính sách đầu tư hợp lý vào các chương trình, mục tiêu, vùng, lãnh thổ,….
  • Áp dụng các biện pháp khuyến khích, bảo vệ sản xuất trong nước, chống độc quyền, kinh doanh trái phép, tham nhũng, bảo vệ người tiêu dùng,…
  • Kết hợp với các biện pháp xử lý hành chính nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh nhằm quản lý kinh tế tốt hơn.

–  Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa – xã hội

Chức năng quản lý văn hóa – xã hội phản ánh thuộc tính xã hội của nhà nước XHCN. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các vấn đề như văn hóa, giáo dục, sức khỏe, việc làm,… cần phải được giải quyết trong mối quan hệ với sự tăng trưởng kinh tế. Nội dung cơ bản của chức năng này là:

  • Chăm lo sự nghiệp giáo dục và đào tạo, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu của quốc gia.
  • Đảm bảo cho sự phát triển khoa học và công nghệ với vai trò then chốt trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
  • Tạo nhiều việc làm cho người lao động, khuyến khích mở rộng sản xuất để thu hút nguồn lao động, khuyến khích đào tạo nghề,….
  • Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và hệ thống quản lý chăm sóc sức khỏe cho công dân.
  • Xây dựng chính sách về lương, thuế hợp lý nhằm đảm bảo đời sống của người dân.
  • Thực hiện các biện pháp kiên quyết nhằm giải quyết tệ nạn xã hội.

Các chức năng đối ngoại

–   Chức năng bảo vệ tổ quốc

Chức năng bảo vệ tổ quốc, củng cố quốc phòng để bảo vệ độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của các nước XHCN. Bởi thông qua chức năng này nhằm mục đích bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm hòa bình ổn định đất nước.

Nền quốc phòng của các nước XHCN mang tính chất tự vệ. Tính chất đó thể hiện trong việc xây dựng các lực lượng vũ trang với đầy đủ sức mạnh cần thiết và khả năng tác chiến cao sẵn sàng chống lại mọi âm mưu phá hoại, thế lực phản động từ các thế lực đế quốc.

– Chức năng củng cố, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước

Mục đích của chức năng này là nhằm mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác quốc tế để góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ. Nội dung của chức năng này gồm:

  • Củng cố và tăng cường tính đoàn kết, hợp tác, tương trợ lẫn nhau giữa các nước trên thế giới.
  • Mở rộng mối quan hệ và hợp tác với các tổ chức quốc tế.
  • Ủng hộ và góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập và dân tộc.

5. Bộ máy nhà nước XHCN

Khái niệm

Nhà nước XHCN là tổ chức quyền lực của nhân dân, đại diện cho nhân dân quản lý mọi mặt của đời sống xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Để thực hiện nhiệm vụ tổ chức và quản lý toàn diện cần lập ra một bộ máy nhà nước. Xuất phát từ bản chất của nhà nước, bộ máy nhà nước XHCN có những đặc điểm sau:

  • Bộ máy nhà nước XHCN được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực. Tính thống nhất quyền lực xuất phát từ quan điểm: tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan đại diện, mà trước hết là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của đất nước.
  • Bộ máy nhà nước XHCN được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Việc phân công này nhằm mục đích phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước, khắc phục sự chồng chéo về quyền hạn của các bộ phận khác nhau trong cơ cấu bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
  • Bộ máy nhà nước XHCN có chức năng thống nhất quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để thực hiện chức năng này, nhà nước thiết lập ra các cơ quan nhà nước. Có thể phân chia các cơ quan trong bộ máy nhà nước theo nhiều cách khác nhau:
  • Xét theo hình thức thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì cơ quan nhà nước được chia thành cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
  • Xét theo trình tự thành lập thì cơ quan nhà nước XHCN được chia thành các cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) và các cơ quan không do nhân dân trực tiếp bầu ra (như nguyên thủ quốc gia do cơ quan quyền lực nhà nước bầu ra).
  • Xét theo tính chất thẩm quyền thì phân cơ quan nhà nước XHCN thành cơ quan có thẩm quyền chung và cơ quan có thẩm quyền riêng.
  • Xét theo cấp độ thẩm quyền của cơ quan nhà nước XHCN được chia thành cơ quan nhà nước ở trung ương và cơ quan nhà nước ở địa phương.

Tuy nhiên, thông thường thì các cơ quan nhà nước được phân chia theo tính chất công việc được đảm nhiệm. Theo cách phân chia này, bộ máy nhà nước gồm cơ quan quyền lực nhà nước; chủ tịch nước, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan xét xử và cơ quan kiểm sát.

Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của bộ máy nhà nước XHCN

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước XHCN là những tư tưởng, nguyên lý chủ đạo, xuyên suốt trong việc tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Việc tuân thủ triệt để các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các nguyên tắc này bao gồm:

–  Nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội

Sự lãnh đạo của Đảng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định phương hướng tổ chức và hoạt động của nhà nước XHCN. Đó là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý công việc nhà nước. Sự lãnh đảo của Đảng đối với nhà nước thể hiện ở các mặt sau:

  • Đảng đề ra đường lối chính trị, chủ trương chính sách lớn cho hoạt động của nhà nước.
  • Chỉ đạo và quyết định các vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước.
  • Thực hiện sự kiểm tra, hướng dẫn, lãnh đạo các cơ quan nhà nước hoạt động theo
  • đúng đường lối, chính sách, nghị quyết do Đảng đề ra.

 – Nguyên tắc bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào công việc quản lý nhà nước

Xuất phát từ bản chất nhà nước XHCN là nhà nước thuộc về nhân dân mà việc nhân dân tham gia vào quản lý công việc của nhà nước là hết sức cần thiết, tạo khả năng phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện như sau:

  • Phải đảm bảo cho nhân dân tham gia đông đảo và tích cực vào việc tổ chức lập ra bộ máy nhà nước.
  • Phải đảm bảo cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc quản lý nhà nước và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước.
  • Phải đảm bảo cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.

–   Nguyên tắc tập trung dân chủ

Tập trung dân chủ là nguyên tắc thể hiện sự hài hóa giữa sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của cơ quan nhà nước cấp trên với việc mở rộng dân chủ rộng rãi để phát huy tính chủ động, sáng tạo của cấp dưới nhằm đạt hiệu quả cao trong quản lý nhà nước. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện những điểm sau:

  • Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.
  • Tất cả các cơ quan đại diện các cấp đều do nhân dân trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
  • Cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương, các quyết định của cấp trên có giá trị bắt buộc đối với cấp dưới.
  • Cơ quan nhà nước cấp trên kiểm tra hoạt động của cơ quan nhà nước cấp dưới. Cơ quan nhà nước cấp dưới chịu trách nhiệm báo cáo trước cơ quan nhà nước cấp trên.
  • Các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của cơ quan được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.
  • Loại trừ tệ quan liêu, tình trạng vô tổ chức, vô kỷ luật trong các cơ quan, tổ chức, góp phần tăng cường pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà nước.

–  Nguyên tắc pháp chế XHCN

Nguyên tắc pháp chế XHXN đòi hỏi có sự tôn trọng triệt để pháp luật trong việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, nghĩa là việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Trong khi thi hành công vụ, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ công chức phải tuân thủ theo đúng pháp luật.

Mặt khác, nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi tăng cường công tác kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của cơ quan, cán bộ công chức nhà nước, đồng thời xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.

6. Hình thức nhà nước XHCN

a. Hình thức chính thể

Tất cả các nhà nước XHCN đều có chính thể cộng hòa dân chủ. Hình thức chính thể của nhà nước XHCN được hình thành theo nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực thông qua cơ quan đại diện quyền lực của mình. Hình thức cộng hòa dân chủ XHCN có những biểu hiện khác nhau, thông qua Công xã Paris, nhà nước Xô Viết, nhà nước dân chủ nhân dân.

–  Công xã Paris

Công xã Paris là hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử, ra đời trong cuộc khởi nghĩa vụ trang năm 1871 của công dân thủ đô Paris.

Nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự xuất hiện của Công xã Paris là do có những mâu thuẫn gay gắt, không thể điều hòa được giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Tuy nhiên, nguyên nhân trực tiếp là do, sau thất bại nặng nề của nước Pháp trong cuộc chiến tranh với nước Phổ (1870 – 1871), cùng với chính sách đối ngoại đầu hàng và chính sách đối nội phản động của Chính phủ Pháp do Chi-e cầm đầu, phong trào đấu tranh của nhân dân và các lực lượng tiến bộ Pháp ngày càng trở nên mạnh mẽ, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Thủ đô Paris ngày 18/3/1871. Đến ngày 28/3/1871, Hội đồng Công xã được tuyên bố thành lập, làm chức năng quản lý xã hội, gồm các đại biểu của công nhân và nhân dân lao động. Các công xã cách mạng cũng được tuyên bố thành lập ở Li-ông, Mác-xây, Tu-lu-dơ và một số thành phố khác của nước Pháp.

Ngay sau khi ra đời, Công xã Paris đã đề ra nhiều chính sách nhằm xây dựng một nhà nước kiểu mới. Trong mọi hoạt động của mình, Công xã đều dựa vào những sáng kiến và sức mạnh của quần chúng. Trước hết, để bảo vệ chính quyền vô sản, tránh sự đàn áp của bọn tư sản và địa chủ, Công xã chú ý đến nhiệm vụ vũ trang toàn dân. Sắc lệnh đầu tiên của Công xã là quyết định thủ tiêu quân đội nhà nghề – công cụ mù quáng của giai cấp thống trị – thay thế bằng Vệ quốc quân, một quân đội con em của nhân dân. Cùng với đó, Công xã cũng tiến hành giải tán lực lượng cảnh sát cũ và dựa vào nhân dân vũ trang để bảo vệ trật tự trị an xã hội. Có thể nói, trước Công xã Paris, chưa bao giờ vị trí, vai trò của nhân dân lại được đề cao như vậy. Đó là một trong những tiến bộ lớn nhất của Công xã Paris

Để tỏ rõ tính ưu việt của Công xã, bộ máy nhà nước theo hình thức Nghị viện tư sản được thay thế bằng Hội đồng Công xã. Đây là cơ quan cao nhất của nhà nước vô sản do tuyển cử phổ thông bầu ra. Hội đồng Công xã ban bố luật pháp và lập những uỷ ban để thi hành luật pháp. Có tất cả 10 ủy ban do Uỷ viên Công xã đứng đầu, chịu trách nhiệm trước Hội đồng Công xã. Những người đứng đầu này phần đông là công nhân, còn lại là những người được thừa nhận làm đại biểu của giai cấp công nhân, đều do tuyển cử mà ra và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào khi mất tín nhiệm. Ngoài ra, Hội đồng Công xã còn ra sắc lệnh tách Nhà thờ khỏi những hoạt động của Nhà nước, đóng cửa toà án tư sản, huỷ bỏ ngân sách về tôn giáo,…

Về kinh tế – xã hội, Hội đồng Công xã giao quyền quản lý các xí nghiệp, nhà máy mà chủ tư bản bỏ trốn cho công nhân. Ở các nhà máy, xí nghiệp mà chủ tư bản đang làm chủ, Hội đồng Công xã quản lý chế độ tiền lương công nhân, nghiêm cấm cúp phạt dưới mọi hình thức đối với công nhân, cấm làm việc ban đêm (Sắc lệnh ngày 20/4/1871). Hội đồng Công xã ban bố chế độ ngày làm việc  8 giờ và điều chỉnh mức lương cho công nhân theo năng lực chuyên môn và tính chất công việc. Hội đồng Công xã cũng quy định giá cả lương thực, thực phẩm và hoãn trả các khoản nợ trước đây; bãi bỏ dịch vụ cầm đồ, trả lại đồ cầm cho công nhân; thay đổi điều kiện ăn ở cho người nghèo; bảo đảm quyền bình đẳng của  phụ nữ; xây dựng các cơ sở giữ trẻ cho con em công nhân…

Về văn hoá – giáo dục, Hội đồng Công xã ra sắc lệnh tách nhà thờ khỏi hệ thống giáo dục, thay thế đội ngũ giáo viên là cha cố bằng giáo viên mới, tăng lương cho giáo viên. Hội đồng Công xã ra sắc lệnh quy định chế độ giáo dục bắt buộc, miễn phí đối với lứa tuổi học sinh. Ngày 2/5/1871, Hội đồng Công xã quyết định thành lập 2 trường trung học chuyên nghiệp.

Ngày 21/5/1871, Hội đồng Công xã ra sắc lệnh thủ tiêu việc kinh doanh nghệ thuật tư nhân và trực tiếp quản lí các công trình, di sản văn hoá cũng như các hoạt động nghệ thuật để phục vụ đông đảo quần chúng; khuyến khích các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ sáng tác những tác phẩm văn học phục vụ cho sự nghiệp của Công xã.

Với những gì đã làm được, Công xã Paris đã chứng minh đó là một nhà nước kiểu mới của giai cấp vô sản, là nhà nước của quần chúng, được nhân dân lao động và công nhân nhiều nơi trên thế giới đồng tình, ủng hộ noi theo. Tóm lược lại thì Công xã Paris có một số đặc điểm đặc trưng sau:

Công xã Paris đã xóa bỏ chế độ đại nghị tư sản thành lập ra hệ thống cơ quan đại diện mới, đó là Hội đồng công xã.

Công xã Paris đã thực hiện việc đập tan bộ máy nhà nước cũ thành lập bộ máy nhà nước mới của giai cấp công nhân.

Công xã Paris đã xác lập chế độ dân chủ mới, đã thực hiện một số biện pháp để bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và tạo điều kiện để giai cấp công nhân và nhân dân lao động tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội.

Mặc dù công xã Paris tồn tại trong 72 ngày, song sự nghiệp cách mạng của Công xã Pari vẫn mãi mãi là một tấm gương vĩ đại, là sự cổ vũ và khích lệ lớn lao đối với trường sử đấu tranh của giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Sự nghiệp của Công xã là sự nghiệp của cách mạng xã hội, sự nghiệp giải phóng hoàn toàn những người lao động về chính trị và kinh tế, là sự nghiệp của giai cấp vô sản toàn thế giới. Đánh giá vai trò lịch sử của Công xã Paris, năm 1908, V.I. Lê-nin cho rằng Công xã Paris

là kiểu mẫu vĩ đại nhất của phong trào vô sản vĩ đại nhất trong thế kỷ XIX.

–  Nhà nước Xô Viết

“Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”. Có thể coi luận điểm đó của V.I. Lê-nin như là một trong những quy luật quan trọng nhất của sự tiến bộ lịch sử. Cuộc cách mạng của giai cấp công nhân ở Paris năm 1871 thất bại nhanh chóng, bởi vì nó đã không thể tự bảo vệ được mình trước sự chống trả quyết liệt của thù trong, giặc ngoài. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại thành công (năm 1917), lập nên một nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và đứng vững trước sự chống phá liên tiếp của bọn phản cách mạng trong nước, cùng sự can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc suốt ba năm (1918 – 1920), bởi vì nó đã biết tự bảo vệ.

Xô Viết xuất hiện là kết quả sáng kiến cách mạng của quần chúng trong cuộc tổng bãi công của công nhân thành phố Petrôgrat năm 1905 với tư cách là Hội đồng đại biểu công nhân. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của công xã Paris và tình hình nước Nga, V.I.Lenin đã kết luận: “hình thức cộng hòa Xô Viết không những là hình thức tổ chức chính trị hợp lý nhất của giai cấp công nhân mà còn là hình thức duy nhất phù hợp với điều kiện của nước Nga. Cộng hòa Xô Viết là sự kế thừa và phát triển của công xã Paris. Do vậy, Cộng hòa Xô Viết có những đặc điểm sau:

Nhà nước Xô Viết là tổ chức chính quyền, thể hiện ý chí và nguyện vọng của quần chúng, được thành lập trên cơ sở cách mạng của công nhân, nông dân, binh lính.

Nhà nước Xô Viết tạo ra một hệ thống các cơ quan nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ. Hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương được thành lập trên cơ sở bầu cử. Các quyết định của cơ quan cấp trên có hiệu lực bắt buộc đối với các cơ quan cấp dưới. Các cơ quan nhà nước thực hiện chế độ chịu trách nhiệm cho từng cơ quan và cá nhân đối với công việc được

Nhà nước Xô Viết quy định quyền ưu tiên trong bầu cử các cơ quan đại diện. Quyền bầu cử chỉ thuộc về nhân dân lao động, còn các phần tử bóc lột không những bị tước quyền bầu cử mà còn bị hạn chế các quyền chính trị khác như cấm hội họp, cấm tự do báo chí và ngôn luận.

Nhà nước Xô Viết đã trải qua những giai đoạn phát triển đầy khó khăn, phức tạp và mâu thuẫn. Vì vậy, trong công cuộc cải tổ, cơ cấu nhà nước Xô Viết cũng đã có sự thay đổi mạnh nhằm phù hợp với tình hình cụ thể của xã hội.

– Nhà nước dân chủ nhân dân

Hình thức nhà nước dân chủ nhân dân xuất hiện sau chiến tranh thế giới lần thứ hai trong một số nước châu Âu như Ba Lan, Bungari, Hungari, Rumani, Tiệp Khắc,… và ở Châu Á như Việt Nam, Triều Tiên, Trung Quốc. Hình thức nhà nước dân chủ nhân dân có những đặc điểm sau:

Nhà nước dân chủ nhân dân (trừ Việt Nam và Bungari) ra đời đều đã sử dụng phương pháp hòa bình và bạo lực, đều thực hiện bước chuyển tiếp từ cách mạng dân chủ nhân dân sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Tổ chức mặt trận tổ quốc, mặt trận nhân dân là hai hình thức cơ bản để tập hợp các lực lượng xã hội. Mặt trận có vai trò quan trọng trong việc thành lập và củng cố chính quyền. Thành phần của mặt trận gồm nhiều đảng chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, nhiều lực lượng xã hội khác nhau, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.

Nhà nước dân chủ nhân dân thực hiện nguyên tắc bầu cử bình đẳng, phổ thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Trong thời kỳ mới thành lập, nhà nước dân chủ nhân dân sử dụng một số chế định pháp luật cũ nhưng không trái với nguyên tắc chế độ mới và được bổ sung những nội dung mới.

b. Hình thức cấu trúc

Nhà nước XHCN hình thành hai cấu trúc cơ bản, đó là: nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang.

Nhà nước đơn nhất

Nhà nước đơn nhất có những đặc điểm cơ bản sau:

  • Nhà nước đơn nhất có chủ quyền chung, có lãnh thổ toàn vẹn thống nhất.
  • Các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương tạo thành một hệ thống nhất, có tính thứ bậc, trực thuộc rõ ràng, địa phương phục tùng trung ương.
  • Nhà nước và xã hội tổ chức và thực hiện trên cơ sở một hiến pháp, một hệ thống pháp luật thống nhất, trong đó các đạo luật chỉ do cơ quan quyền lực tối cao ban hành. Các văn bản pháp luật của chính quyền địa phương được ban hành trên cơ sở các văn bản của cấp trên.

Nhà nước liên bang

Trong lịch sử, nhà nước liên bang XHCN được hình thành trên nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng của các quốc gia độc lập có chủ quyền. Từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, ngày nay không có một nhà nước XHCN nào có hình thức cấu trúc liên bang. Do vậy, nhà nước liên bang có những đặc điểm sau:

  • Các nước cộng hòa trong liên bang là các quốc gia có chủ quyền, có quyền ngang nhau không phụ thuộc vào số lượng dân cư và diện tích lãnh thổ.
  • Các nước cộng hòa trong liên bang có hiến pháp và hệ thống pháp luật riêng, tổ chức bộ máy nhà nước riêng. Các đạo luật của liên bang là cơ sở pháp lý có tính nguyên tắc đối với hệ thống pháp luật của các nước cộng hòa.
  • Trong nhà nước liên bang tồn tại hai hình thức quyền lực nhà nước: quyền lực liên bang và quyền lực của các nước cộng hòa.
  • Nhà nước liên bang XHCN hình thành trên cơ sở giải quyết các vấn đề dân tộc, khác với nhà nước liên bang tư sản hình thành trên cơ sở sự thống nhất về mặt lãnh thổ.
  • Các nước cộng hòa là thành viên nhà nước liên bang không phải là chủ thể độc lập của luật quốc tế.
  • Mặc dù hình thức nhà nước tuy khác nhau nhưng bản chất của nhà nước XHCN giống nhau, đều thực hiện nền dân chủ XHCN.

c. Chế độ chính trị

Đặc trưng của chế độ dân chủ của nhà nước XHCN là mang tính dân chủ thực sự và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân.

Nhưng phương pháp thực hiện quyền lực của nhà nước XHCN chủ yếu mang tính giáo dục, thuyết phục nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xử lý nghiêm minh khi có hành vi vi phạm pháp luật nhà nước.

(Tổng hợp)

5/5 - (1 bình chọn)

Có thể bạn quan tâm

123123

Lytuong.net – Contact: [email protected]