Nhà nước chiếm hữu nô lệ hay còn gọi là nhà nước chủ nô là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử, là tổ chức chính trị đặc biệt của giai cấp chủ nô. Nhà nước chủ nô là hình thái kinh tế – xã hội có giai cấp dựa trên cơ sở chế độ người bóc lột người. Chế độ chiếm hữu nô lệ phát sinh trong thời kỳ tan rã của công xã nguyên thủy. Hai giai cấp chính của chế độ chiếm hữu nô lệ là chủ nô và nô lệ. Do điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý, cùng các yếu tố tác động bên ngoài,… khác nhau nên ở các khu vực địa lý khác nhau, sự xuất hiện nhà nước chủ nô cũng khác nhau. Nhưng cơ bản, nhà nước chủ nô xuất hiện ở phương Đông và phương Tây là rõ ràng nhất.
Nhà nước chủ nô xuất hiện ở phương Đông
- Do điều kiện về tự nhiên, chống ngoại xâm và làm thủy lợi mà nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông xuất hiện sớm hơn nhiều so với các nhà nước phương Tây, điển hình là các nhà nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ cổ đại.
- Tuy nhiên, quá trình hình thành nhà nước lại diễn ra rất chậm chạp và kéo dài. Trong giai đoạn này, nhà nước tồn tại và phát triển trên cơ sở đan xen giữa chế độ công hữu còn chế độ tư hữu mới hình thành, chưa phát triển lắm.
Nhà nước chủ nô xuất hiện ở phương Tây
- Khi lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ tương đối cao thì nhà nước chủ nô phương Tây xuất hiện, điển hình là nhà nước Hy Lạp, La Mã cổ đại.
- Nguyên nhân cơ bản là sự xuất hiện chế độ tư hữu tư nhân đã làm xã hội phân hóa thành giai cấp, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp.
- Ngược lại với phương Đông, quá trình biến đổi của xã hội phương Tây diễn ra sâu sắc, tổ chức thị tộc, bộ lạc thoái hóa và tan rã từng bước, và dần hình thành nên nhà nước. Qua mỗi lần cải cách xã hội thì tổ chức thị tộc, bộ lạc lại càng nhanh bị tan rã và nhà nước ngày càng xuất hiện rõ nét hơn.
1. Bản chất của nhà nước chủ nô
Cơ sở kinh tế của nhà nước chiếm hữu nô lệ là quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ. Quan hệ này dựa trên sở hữu chủ nô không những đối với tư liệu sản xuất mà cả đối với người lao động, đó là nô lệ. Đất đai và các tư liệu sản xuất hầu hết thuộc sở hữu của các chủ nô.
Giai cấp nô lệ chiếm đa số trong xã hội, là lực lượng chủ yếu tạo ra của cải vật chất nhưng không có tư liệu sản xuất, do đó phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nô. Người nô lệ cũng bị coi là thứ tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của giai cấp chủ nô. Do vậy, nô lệ bị bóc lột một cách tàn nhẫn và không có giới hạn. Tình trạng này dẫn tới mâu thuẫn giữa hai giai cấp ngày càng trở nên gay gắt và không thể điều hòa được. Đấu tranh giai cấp diễn ra ác liệt và nhà nước chủ nô chính là sản phẩm của cuộc đấu tranh đó.
Chính điều kiện kinh tế – xã hội đã quyết định bản chất của nhà nước chủ nô. Xét về bản chất, nhà nước chủ nô thể hiện tính giai cấp và tính xã hội trong tất cả các kiểu nhà nước.
– Tính giai cấp
- Trong xã hội chủ nô có hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ, bên cạnh đó còn có dân tự nhiên.
- Với nhà nước phương Tây, tính giai cấp được thể hiện rất sâu sắc và mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ rất rõ rệt. Bởi trong nhà nước này, nô lệ là bộ phận dân cư đông đảo trong xã hội và có địa vị xã hội vô cùng kém. Họ bị coi là tài sản thuộc sở hữu của chủ nô. Chủ nô có quyền tuyệt đối với nô lệ như bóc lột sức lao động, đem bán, hoặc thậm chí là giết chết. Nô lệ trở thành món hàng hóa và thậm chí có cả khu vực chuyên mua bán nô lệ, ở đó, nô lệ được đem bán như đem bán gia súc. Nguồn nô lệ trong nhà nước này chủ yếu từ các cuộc chiến tranh. Chính vì vậy, đấu tranh giai cấp thường xuyên xảy ra ở mức độ ngày càng gay gắt.
- Ngược lại, trong nhà nước phương Đông, do nô lệ không phải là lực lượng sản xuất chủ yếu mà là công xã nông thôn nên mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ trong nhà nước này không thể hiện sâu sắc như nhà nước phương Tây.
- Công xã nông thôn là một hình thái xã hội xuất hiện phổ biến vào giai đoạn tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và quá độ sang xã hội giai cấp. Công xã nông thôn được công xã định kỳ chia đều ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước để tự canh tác và nộp thuế cho nhà nước.
- Ngoài ra, nô lệ trong nhà nước phương Đông không thấp kém như trong nhà nước phương Tây. Nô lệ chủ yếu làm công việc nhà trong gia đình chủ nô. Họ vẫn có quyền lập gia đình, thậm chí còn được coi là một thành viên trong gia đình. Do vậy, mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nô lệ vì thế không sâu sắc như phương Tây.
– Tính xã hội
- Nhà nước chủ nô nảy sinh để quản lý xã hội, thay thế cho chế độ cộng sản nguyên thủy không còn khả năng cai quản xã hội được nữa.
- Nhà nước chủ nô tiến hành một số hoạt động vì sự tồn tại và phát triển chung của toàn xã hội như tổ chức quản lý kinh tế ở quy mô lớn, quản lý đất đai, khai hoang,… làm cho đất nước phát triển, nâng cao đời sống của nhân dân.
- So với nhà nước phương Tây, nhà nước phương Đông thể hiện tính xã hội rõ nét hơn. Trong nhà nước phương Đông, do nhu cầu của cả cộng đồng xã hội mà việc tổ chức dân cư tiến hành công cuộc trị thủy, chống ngoại xâm, quản lý đất đai và các hoạt động xã hội khác nhằm duy trì đời sống chung của cộng đồng.
- Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, yếu tố tư hữu dần dần hình thành, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội trở nên gay gắt và khi đó nhà nước dần mất đi ý nghĩa ban đầu của nó.
Tóm lại, sự ra đời và phát triển của nhà nước chủ nô là một bước tiến lớn trong lịch sử nhân loại, tạo ra tiền đề cho sự phát triển kinh tế, văn hóa của các xã hội sau này.
2. Chức năng của nhà nước chủ nô
Nhà nước chủ nô gồm chức năng đối nội và chức năng đối ngoại chính sau:
a. Chức năng đối nội
– Chức năng củng cố và bảo vệ chế độ sở hữu
- Đây là chức năng thể hiện được bản chất của nhà nước chủ nô. Bởi với giai cấp chủ nô có quyền sở hữu tuyệt đối về tư liệu sản xuất và sức sản xuất từ nô lệ.
- Bên cạnh đó, nhà nước chiếm hữu chủ nô còn quy định những biện pháp khác nhau nhằm trừng phạt nghiêm khắc đối với những hành vi xâm phạm tới sở hữu của chủ nô.
– Chức năng đàn áp bằng quân sự đối với sự phản kháng của nô lệ và các tầng lớp lao động khác
Xuất phát từ mẫu thuẫn sâu sắc giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ mà nhà nước chủ nô đã thực hiện đàn áp dã man bằng quân sự đối với các cuộc nổi dậy, phản kháng của nô lệ và những người lao động.
– Chức năng đàn áp về tư tưởng
Bên cạnh việc đàn áp nô lệ bằng biện pháp quân sự, giai cấp chủ nô còn sử dụng biện pháp đàn áp về tư tưởng. Nghĩa là giai cấp chủ nô lợi dụng sự kém hiểu biết của giai cấp nô lệ mà đã sử dụng tôn giáo nhằm đàn áp. Thông qua nhà nước, giai cấp chủ nô đã xây dựng hệ tư tưởng tôn giáo cho mình nhằm duy trì sự thống trị về mặt tư tưởng và duy trì tình trạng bất bình đẳng trong xã hội để đàn áp và bóc lột nô lệ.
b. Chức năng đối ngoại
– Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược
Sự tồn tại của nhà nước nô lệ gắn liền với chế độ nô lệ. Nhà nước chủ nô hầu như không hạn chế số lượng nô lệ thuộc sở hữu của mỗi chủ nô. Vì vậy, nhằm tăng cường số nô lệ của quốc gia mình, chiến tranh chính là một trong những phương tiện chủ yếu của nhà nước nô lệ sử dụng nhằm thôn tính và cướp bóc mở rộng lãnh thổ của mình. Nhưng chiến tranh cũng dẫn tới hậu quả là mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ thêm sâu sắc và quan hệ giữa các nhà nước luôn trong tình trạng căng thẳng.
– Chức năng phòng thủ đất nước
Cùng với chức năng xâm lược thì nhà nước nô lệ cũng chú trọng tới phòng thủ đất nước nhằm chống lại các cuộc xâm lược từ bên ngoài. Để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, nhà nước chủ nô thực hiện chức năng này thông qua tổ chức lực lượng quân đội, xây dựng các thành lũy, pháo đài,…
3. Bộ máy nhà nước chủ nô
Khi nhà nước chủ nô mới ra đời, bộ máy nhà nước còn kế thừa, in đậm những dấu ấn của hệ thống quyền lực thị tộc. Việc tổ chức bộ máy nhà nước còn mang tính tự phát, những người nằm trong bộ máy nhà nước thường đảm đương tất cả các công việc.
Cùng với sự phát triển của nhà nước chủ nô, bộ máy nhà nước ngày càng được tổ chức một cách quy củ và mang tính chuyên nghiệp hơn. Nhà nước được chia thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và tổ chức bộ máy theo cấp, hình thành nên hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương.
– Đối với nhà nước ở phương Tây, tổ chức nhà nước khá hoàn thiện, trong bộ máy nhà nước đã phân thành các cơ quan nhà nước với cách thức tổ chức và hoạt động dân chủ. Điểm nổi bật trong nhà nước phương Tây chính là phân định rõ ràng giữa các cơ quan trong việc lập pháp, hành pháp và tư pháp. Điển hình là nhà nước Aten, nhà nước La Mã và nhà nước Spác.
– Đối với nhà nước ở phương Đông, tổ chức bộ máy đơn giản hơn so với nhà nước phương Tây. Nhà Vua có toàn quyền thực thi quyền lực nhà nước. Các quan lại từ trung ương tới địa phương là bề tôi của nhà vua và giúp việc cho nhà vua. Điển hình cho nhà nước phương Đông là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ.
Dù là nhà nước phương Đông hay phương Tây thì trong bộ máy của các nhà nước chủ nô, quân đội, cảnh sát, tòa án là lực lượng chủ chốt.
– Quân đội được quan tâm xây dựng để thực hiện việc chinh phạt và bảo vệ chủ quyền. Những người chỉ huy quân đội được phong những tước hiệu và có chế độ ưu đãi. Vai trò của quân đội ngày càng quan trọng khi các cuộc đấu tranh của giai cấp nô lệ ngày càng phát triển và chiến tranh giữa các nước diễn ra thường xuyên.
– Lực lượng cảnh sát được hình thành nhằm giữ gìn trật tự xã hội nô lệ trong nước.
– Tòa án ở mỗi quốc gia chiếm hữu nô lệ có những điểm đặc trưng. Nhà nước phương Tây thiết lập hệ thống vừa có quyền xét xử và vừa có quyền quản lý hoặc hệ thống chuyên trách xét xử bởi các thẩm phán được bầu theo định kỳ. Còn ở nhà nước phương Đông, quyền xét xử tối cao nằm trong tay nhà vua và quyền này được ủy quyền lại cho một tổ chức phụ thuộc trực tiếp vào nhà vua.
4. Hình thức nhà nước chủ nô
a. Hình thức chính thể
Hình thức chính thể chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa tồn tại và phát triển trong nhà nước chủ nô. Nhưng do điều kiện kinh tế xã hội khác nhau nên việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở mỗi nước cũng có sự khác biệt.
– Chính thể quân chủ
Là hình thức nhà nước phổ biến ở nhà nước phương Đông cổ đại.
- Đặc trưng của nhà nước này là quyền lực nhà nước tập trung vào người đứng đầu nhà nước, đó là vua và hình thành theo nguyên tắc cha truyền con nối.
- Giúp việc cho nhà vua là có hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương xuống địa phương nhưng chủ yếu là những người có quan hệ dòng họ hoặc thân cận với
- Hình thức chính thể quân chủ còn thể hiện nhà vua là người có quyền lực vô hạn và toàn quyền quyết định mọi việc của nhà nước, không có bất cứ thiết chế nào làm hạn chế quyền lực của nhà nước.
- Dẫn chứng tới nhà nước Ai Cập, Pha-ra-ông (vua) nắm mọi quyền lực nhà nước, là chủ sở hữu ruộng đất của các nước và trực tiếp lập ra nhiều điền trang ở Ai Cập. Hầu như không có sự phân biệt giữa tài sản của nhà vua và tài sản của nhà nước.
Hệ thống quan lại ở trung ương và địa phương do Pha-ra-ông nắm giữ. Vua có quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm, trừng phạt bất cứ ai và có quyền quyết định mọi công việc quan trọng của đất nước.
Người trực tiếp giúp việc cho vua cai quản bộ máy quan lại là một viên quan cao nhất gọi là Vi-Di-A. Vi-Di-A thường là con vua, nắm mọi chức năng quan trọng của nhà nước như tư pháp, thuế, thủy lợi, hành chính,….
Trong hàng ngũ quan lại, châu trưởng đóng vai trò quan trọng, đứng đầu các châu ở địa phương.
Về tổ chức tòa án và tố tụng cũng khá hoàn chỉnh đáp ứng yêu cầu củng cố chính quyền của giai cấp chủ nô. Vua là người xét xử cao nhất. Cơ quan chuyên môn xét xử gồm 6 viện, đứng đầu là một viên chưởng lý.
Còn về quân đội, đứng đầu là viên tổng chỉ huy quân đội là người họ hàng của vua. Các sĩ quan cao cấp và những cơ quan đầu não của quan đội đều trực thuộc vua và độc lập với cơ quan dân sự.
Ngoài ra, tôn giáo là công cụ thống trị tinh thần người dân Ai Cập. Các chức vụ tăng lữ cao cấp đều do các viên đại thần nắm giữ, thường là bà con thân thích của nhà vua. Nhiệm vụ của các tăng lữ là thần thánh hóa nhà vua, củng cố, đề cao uy tín của giai cấp chủ nô đối với quần chúng bị áp bức bóc lột.
Như vậy, giai cấp thống trị chủ nô Ai cập đã kết hợp chặt chẽ giữa vương quyền và thần quyền để đàn áp bóc lột giai cấp bị trị.
– Chính thể cộng hòa
Được thể hiện rõ nét tại nhà nước phương Tây nhưng chính thể cộng hòa ở nhà nước phương Tây gồm cộng hòa dân chủ và cộng hòa quý tộc.
Chính thể cộng hòa dân chủ tồn tại ở nhà nước Aten vào thế kỷ thứ V – IV trước công nguyên.
- Trong nhà nước này, cơ quan quyền lực nhà nước đều được hình thành bằng con đường bầu cử và hoạt động theo nhiệm kỳ.
- Hội nghị công dân là cơ quan có quyền lực cao nhất, cứ khoảng 10 ngày họp một lần. Hội nghị công dân có quyền thảo luận và biểu quyết tất cả các vấn đề liên quan tới nhà nước, có quyền bầu ra các cơ quan và cá nhân thực thi quyền lực nhà nước theo kỳ hạn nhất định.
- Nhưng bản chất chính thể cộng hòa dân chủ ở Aten là chính thể cộng hòa dân chủ của chủ nô. Bởi nhà nước Aten được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu và quan hệ bóc lột nô lệ. Nó bảo vệ địa vị và quyền lợi của giai cấp chủ nô. Chỉ có chủ nô và rất ít người lao động tự do mới được hưởng quyền chính trị, còn phụ nữ, kiều dân, nô lệ ở ngoài vòng sinh hoạt chính trị.
Chính thể cộng hòa quý tộc tồn tại ở nhà nước Spác (thế kỷ VII – IV trước Công nguyên) và La Mã (thế kỷ V – II trước công nguyên).
+ Ở nhà nước Spác
Đại hội nhân dân vẫn tồn tại nhưng không chiếm vị trí quan trọng, mà chỉ tiến hành bầu những người tham gia vào các chức vụ trong bộ máy nhà nước, thông qua về mặt hình thức các dự luật chứ không có quyền thảo luận và đóng góp ý kiến.
Cơ quan nắm quyền lực nhà nước trong nhà nước Spác là Hội nghị trưởng lão do giới quý tộc bầu ra gồm hai vua có quyền lực ngang nhau và 28 thành viên đại diện cho 28 bộ lạc cũ của người Spác hợp thành. Hội nghị trưởng lão có quyền lập pháp và giải quyết các vụ việc quan trọng của đất nước.
Bên cạnh đó còn có hội đồng năm quan giám sát cũng do tầng lớp quý tộc bầu ra, là cơ quan cao nhất được đại hội nhân dân bầu theo nhiệm kỳ một năm để giám sát hoạt động của hội nghị trưởng lão, triệu tập và chủ trì đại hội nhân dân, có quyền giải quyết mọi công việc ngoại giao, tài chính, tư pháp, kiểm tra tư cách công dân.
+ Còn ở nhà nước La Mã cũng có điểm tương đồng với nhà nước Spác.
Về mặt hình thức Đại hội nhân dân là cơ quan cao nhất nhưng quyền lực lại nằm trong tay Viện nguyên lão.
Viện nguyên lão với các thành viên là những người thuộc tầng lớp quý tộc giàu sang, có thế lực, đã từng nắm giữ các chức quan cao cấp. Viện nguyên lão có quyền quyết định hầu hết các vấn đề quan trọng của nhà nước, có quyền thảo luận trước các dự luật, có quyền phê chuẩn hoặc phủ quyết những nghị quyết của đại hội nhân dân. Nếu Viện nguyên lão không đồng ý thì Đại hội nhân dân không thể thông qua các đạo luật.
Cơ quan hành pháp của nhà nước La Mã gồm hai hội đồng: Hội đồng chấp chính và Hội đồng quan án do Đại hội nhân dân bầu ra theo nhiệm kỳ một năm, là cơ quan trực tiếp điều hành công việc hàng ngày của đất nước.
Tóm lại, cách tổ chức nhà nước như trên thể hiện sâu sắc tính chất quý tộc của nền cộng hòa quý tộc chủ nô.
b. Về hình thức cấu trúc
Hầu hết các nhà nước chủ nô đều có cấu trúc đơn nhất. Giai đoạn đầu, các nhà nước chưa có sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ. Cùng với sự phát triển, các đơn vị hành chính lãnh thổ mới từng bước được thiết lập.
c. Về chế độ chính trị
Các nhà nước chủ nô chủ yếu sử dụng phương pháp phản dân chủ để thực hiện quyền lực của mình.
Các nhà nước phương Đông thực hiện quyền lực bằng phương pháp độc tài chuyên chế.
Các nhà nước phương Tây sử dụng các phương pháp ít nhiều có tính dân chủ hơn, song vẫn thể hiện là một chế độ quân chủ tàn bạo, chuyên chế với đại bộ phận dân cư.
(Nguồn tham khảo: topica.edu.vn)