1. Khái niệm
Chính sách dân số là tổng thể các mục tiêu về phát triển dân số và hệ thống những biện pháp được chính phủ quy định dưới các dạng tài liệu khác nhau như: (văn kiện, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết, điều luật…) nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp tác động vào các quá trình dân số để điều tiết sự phát triển dân số cho phù hợp với mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ, từng giai đoạn nhất định của đất nước.
Hiểu theo quan điểm hệ thống, chính sách dân số là một bộ phận của chính sách kinh tế xã hội. Vì vậy, các chính sách dân số và các chính sách phát triển có mối quan hệ mật thiết với nhau.
2. Những mục tiêu và biện pháp của chính sách dân số
a. Những mục tiêu chủ yếu của chính sách dân số
Các mục tiêu của chính sách dân số thường là:
– Bảo đảm quy mô, cơ cấu và tỷ lệ phát triển dân số đạt mức tối ưu, ổn định lâu dài và vững chắc, trên cơ sở điều chỉnh sự tăng, giảm mức sinh một cách hợp lý, khống chế tốt mức độ tử vong, không ngừng nâng cao tuổi thọ trung bình của dân cư.
– Thực hiện phân bố dân cư và lao động một cách hợp lý giữa các vùng, các khu vực, tạo điều kiện khai thác triệt để và có hiệu quả cao các nguồn tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, môi trường và nguồn nhân lực cho phát triển.
– Không ngừng nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển toàn diện con người, góp phần vào quá trình phát triển bền vững của đất nước.
Đây là những mục tiêu cơ bản và chung nhất của chính sách dân số. Trên cơ sở những mục tiêu tổng quát đó, từng thời kỳ, từng vùng, từng khu vực, từng địa phương cần cụ thể hóa các mục tiêu đó cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện và tình hình thực tế cũng như yêu cầu, nhiệm vụ phát triển KTXH của đất nước và từng địa phương. Nói cách khác, khi xác định mục tiêu của chính sách dân số, ngoài các mục tiêu chung cho cả nước còn phải được xác định mục tiêu cụ thể cho từng khu vực, vùng, miền, cho các địa phương và cho những mốc thời gian nhất định.
Ngoài những mục tiêu chung và chủ yếu được đề xướng trong các chính sách dân số, trong quá trình thực hiện cần xây dựng và bổ sung thêm một số mục tiêu phụ, nhằm góp phần để thực hiện nhanh và có hiệu quả cao các mục tiêu chính. Các mục tiêu phụ có thể được thể hiện dưới dạng các chỉ tiêu như sau:
+ Tăng, giảm tỷ suất sinh hợp lý hoặc duy trì sự ổn định lâu dài và vững chắc mức sinh ở mức tối ưu.
+ Khống chế tích cực để bảo đảm mức chết không ngừng giảm xuống và duy trì để mức chết thấp ổn định lâu dài.
+ Quy định khoảng cách giữa hai lần sinh kế tiếp nhau một cách hợp lý, khoảng thời gian tối ưu giữa lần sinh con đầu lòng và lần sinh con cuối cùng.
+ Số lần sinh đẻ, số con bình quân đối với một cặp vợ chồng tính trên phạm vi toàn quốc và cho từng khu vực, vùng, miền, từng địa phương và cho từng giai đoạn, từng thời kỳ phát triển khác nhau.
+ Không ngừng nâng cao chất lựơng dân số về mặt thể lực, trí lực và tinh thần, phấn đấu để chỉ số HDI từng bước được cả thiện.
+ Cải thiện điều kiện dinh dưỡng, điều kiện y tế và chăm sóc sức khỏe cho người dân, bảo đảm mức chết, đặc biệt mức chết trẻ em giảm xuống, kỳ vọng sống trung bình của người dân tăng lên.
+ Điều chỉnh sự phát triển dân số và thực hiện điều chuyển dân cư, lao động hợp lý, bảo đảm mật độ dân số tối ưu giữa các vùng, miền.
Các mục tiêu của chính sách dân số quyết định hướng, nội dung và mức độ của các biện pháp chính sách dân số. Vì thế, xác định có cơ sở khoa học các mục tiêu của chính sách dân số có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc quyết định sự thành công của nó. Để xác định có căn cứ khoa học và thực tiễn các mục tiêu của chính sách dân số, cần dựa trên những cơ sở chủ yếu sâu đây:
- Những mục tiêu chiến lược của Đảng và Nhà nước về phát triển KTXH trước mắt và lâu dài được cụ thể hóa trong các kế hoạch 5 năm và trong chiến lược phát triển KTXH của đất nước.
- Tình hình và đặc điểm phát triển dân số của đất nước nói chung, từng vùng, khu vực và từng địa phương nói riêng.
- Đặc điểm và điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội cũng như tình hình phân bố lực lượng sản xuất của từng vùng, khu vực, địa phương và trong cả nước.
- Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khách quan và chủ quan đến các quá trình dân số và khả năng tác động của hệ thống các biện pháp của chính sách dân số.
- Phong tục tập quán, tâm lý, văn hóa truyền thống, quan điểm, nhận thức và các hành vi nhân khẩu khác của người dân.
- Hệ thống mạng lưới y tế, chăm sóc bảo vệ sức khỏe người dân, bảo hiểm xã hội và các dạng dịch vụ khác.
- Tính quy luật của sự phát triển dân số và các kết quả dự báo dân số tương lai.
- Kinh nghiệm thực tế của các nước, nhất là các nước có đặc điểm phát triển dân số và KTXH tương tự.
b. Những biện pháp chủ yếu của chính sách dân số
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của chính sách dân số là phải lựa chọn và quyết định đúng đắn các biện pháp của chính sách dân số. Hiệu quả của chính sách dân số tùy thuộc rất nhiều vào tính đúng đắn của các biện pháp đề ra trong chính sách dân số. Bởi vì các biện pháp của chính sách dân số và mức độ tác động của chúng trong chừng mực nhất định là cơ sở cho việc định rõ mục tiêu của chính sách dân số. Đến lượt nó, các biện pháp của chính sách dân số lại trở thành điều kiện, phương tiện để thực hiện các mục tiêu của chính sách dân số. Giữa mục tiêu và biện pháp của chính sách dân số liên quan mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau.
Các biện pháp của chính sách dân số là tổng thể những quy định, chế độ, phương tiện, điều kiện về mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, tư tưởng, tổ chức, pháp luật nhằm hướng vào việc thực hiện tốt các mục tiêu đã được đề ra trong chính sách dân số.
Căn cứ vào sự định hướng của các mục tiêu của chính sách dân số, những biện pháp của nó có thể tác động theo hướng kích thích làm tăng hoặc khống chế, kìm hãm quá trình phát triển dân số. Các biện pháp của chính sách dân số tác động lên các quá trình dân số thông qua việc tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào các yếu tố ảnh hưởng đến các quá trình dân số.
Hệ thống các biện pháp của chính sách dân số bao gồm các nhóm chủ yếu sau:
Những biện pháp kinh tế xã hội (KTXH).
Những biện pháp KTXH của chính sách dân số là tập hợp các quy định, chế độ về mặt KTXH hoạt động như là những kích thích hoặc kìm hãm nhằm phục vụ cho những mục tiêu của chính sách dân số.
Về mặt kinh tế, trước hết phảỉ đề cập đến những quy định, chế độ liên quan đến vấn đề thu nhập, những ưu đãi về quyền lợi kinh tế gắn liền với việc thực hiện các mục tiêu của chính sách dân số. Có thể nêu lên một loạt các vấn đề liên quan đến chính sách dân số như: chế độ trợ cấp nuôi con; phụ cấp sinh đẻ; thời gian nghỉ dưỡng sinh; những ưu đãi về giá đối với các loại hàng hóa tiêu dùng và các dạng dịch vụ, v.v…
Trong điều kiện cần hạn chế sự gia tăng dân số, các biện pháp kinh tế xã hội cần ưu tiên tập trung hướng vào việc tác động làm giảm mức sinh, giảm số người nhập cư. Ví dụ như các chính sách, chế độ, quy định về trợ cấp sinh đẻ, nuôi con và nhiều chế độ đãi ngộ khác có liên quan cần ưu đãi tập trung cho những đứa con thứ nhất và lần sinh thứ nhất, trợ cấp với mức thấp hơn cho đứa con thứ 2 và lần sinh thứ 2, bỏ các chế độ trợ, phụ cấp và các dạng dịch vụ xã hội khác đối với những đứa con và các lần sinh tiếp sau; Ưu tiên cho những gia đình 1-2 con được vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi để đầu tư vào sản xuất, phát triển kinh tế gia đình; cấp đất canh tác và đất thổ cư ưu tiên cho những gia đình có từ 1-2 con; Đối với những người nhập cư bất hợp pháp, các chế độ trợ cấp và phụ cấp không được hưởng hoặc hưởng với mức rất thấp…
Ngược lại, đối với các quốc gia, các khu vực, địa phương đang thực hiện chính sách dân số theo định hướng thúc đẩy gia tăng dân số nhanh, tất nhiên những quy định và chế độ về quyền lợi kinh tế và những ưu tiên đó lại hướng chủ yếu vào các lần sinh thứ 3, thứ 4.
Cùng với những biện pháp kinh tế là những biện pháp về xã hội. Thực ra, những vấn đề về kinh tế và xã hội luôn đi liền với nhau, thâm nhập vào nhau. Trong các biện pháp kinh tế thường bao hàm trong nó nội dung xã hội và ngược lại, những vấn đề xã hội luôn luôn đan cài trong đó cả nội dung về kinh tế. Về mặt xã hội, để phục vụ cho các mục tiêu của chính sách dân số, các biện pháp mang tính xã hội thường tập trung hướng vào việc đưa ra những quy định, chế độ ưu đãi, ưu tiên hoặc hạn chế, cấm đoán có liên quan đến các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe, nhà ở. Ví dụ: để hạn chế mức sinh, có thể quy định ưu tiên miễn giảm chế độ viện phí, chăm sóc y tế, khám thai miễn phí cho những phụ nữ sinh con lần đầu và lần 2; tạo điều kiện và cơ hội để tiếp cận giáo dục thuận lợi, thực hiện miễn giảm học phí cho con cái các gia đình đăng ký thực hiện đúng mục tiêu dân số mà địa phương và nhà nước quy định khi con cái họ tiếp tục học lên những bậc học cao hơn; thực hiện phân phối nhà ưu tiên cho những cặp vợ chồng trẻ chỉ sinh 1 hoặc 2 con.
Cùng với sự phát triển của đất nước, thu nhập quốc dân không ngừng được tăng lên, thông qua các biện pháp kinh tế – xã hội, chính phủ có đủ khả năng và điều kiện tác động để thực hiện và đạt được các mục tiêu của chính sách dân số trên phạm vi toàn xã hội. Tuy nhiên, khi xác định và thực hiện những biện pháp KTXH của chính sách dân số cần phải quan tâm và chú ý đến đặc điểm dân cư theo các vùng, miền và các đối tượng khác nhau. Khu vực nông thôn ở các nước nghèo luôn có số lượng dân số chiếm phần đông so với cả nước, cần phải nghiên cứu và đề ra những biện pháp KTXH riêng cho phù hợp với đặc điểm về thu nhập và điều kiện xã hội của họ. Đây là những vấn đề hết sức nhạy cảm và khá phức tạp, nhưng rất cần thiết, bởi vì bộ phận dân cư này chiếm đại đa số trong tổng dân số cả nước và lại là nơi luôn duy trì truyền thống sinh đẻ nhiều con. Mặt khác, để các biện pháp KTXH phát huy hiệu quả, đáp ứng yêu cầu mục tiêu của chính sách dân số, cần rà soát lại những quy định trong các chính sách, chế độ về kinh tế xã hội không còn thích hợp hoặc cản trở việc thực hiện mục tiêu chính sách dân số để bổ sung điều chỉnh cho phù hợp. Cần loại bỏ hoàn toàn những quy định, chế độ có tác dụng ngược chiều với các mục tiêu trên. Thực hiện lồng ghép các mục tiêu của chính sách dân số vào các chương trình phát triển kinh tế xã hội.
Ví dụ: Một số quy định ở nước ta về cấp đất canh tác theo số nhân khẩu ở nhiều địa phương đã cản trở cho việc thực hiện giảm sinh, đặc biệt ở vùng nông thôn trước đây. Một số chính sách, chế độ bao cấp cho nạo hút thai (bao cấp tiền thuốc cho phụ nữ khi thực hiện nạo hút thai, bồi dưỡng vật chất cho những phụ nữ nạo hút thai do sử dụng các biện pháp tránh thai bị thất bại, phụ cấp cho các nhân viên y tế khi tiến hành các ca nạo hút thai…), để tạo cho một số nhân viên y tế cửa quyền và sẽ nảy sinh tiêu cực. Hơn nữa, thay vì phải sử dụng các phương tiện tránh thai, nhưng do việc tiếp cận dịch vụ nạo hút thai quá dễ dàng và thuận lợi, chi phí cho việc nạo phá thai quá rẻ, nên nhiều đối tượng khách hàng, nhất là các khách hàng thuộc khu vực thành thị thường lạm dụng nó. Điều này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới sức khoẻ nói chung, sức khỏe sinh sản nói riêng của cộng đồng dân cư cả hiện tại lẫn tương lai.
Những biện pháp thông tin, giáo dục, tuyên truyền.
Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục, vận động giữ vai trò chủ đạo trong việc thực hiện thành công mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ đề ra trong chính sách dân số. Làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, vận động, giáo dục sẽ có những tác động tích cực và đóng góp quan trọng trong việc nâng cao trình độ dân trí, trình độ nhận thức, hiểu biết và làm thay đổi quan niệm của người dân, tạo được lòng tin trong đông đảo quần chúng nhân dân, tạo ra dư luận xã hội rộng rãi, sự đồng tình ủng hộ trong quần chúng nhân dân để mọi người tự nguyện thực hiện mục tiêu, yêu cầu của chính sách dân số.
Tuyên truyền, vận động, giáo dục tốt sẽ làm thay đổi nhận thức, nâng cao ý thức của người dân và nhiều hành vi dân số mới sẽ được hình thành từ ông bà cha mẹ, đến các cặp vợ chồng trẻ, từ thành thị đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc và các nhóm tôn giáo sẽ có được những bước chuyển biến đáng kể để thực hiện thành công mục tiêu ổn định quy mô gia đình và quy mô dân số, góp phần quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao mức sống dân cư.
Trong việc thực hiện mục tiêu của chính sách dân số, tuyên truyền, vận động, giáo dục tư tưởng cần hướng vào một số nội dung và trên những phương diện chủ yếu sau đây:
– Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức, thay đổi quan niệm, chuyển đổi hành vi dân số của người dân nói chung. Cần xây dựng chiến lược tuyên truyền, vận động giáo dục hợp lý, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng địa phương, từng cấp quản lý, từng nhóm đối tượng. Đây là một trong những nội dung cơ bản nhằm đảm bảo tính ổn định và bền vững của mục tiêu và chương trình dân số.
Đặc biệt phải quan tâm nhiều hơn đến những địa bàn mà điều kiện sống còn gặp nhiều khó khăn ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo khó mà ở đó mức sinh, mức chết vẫn còn duy trì ở mức độ cao, chất lượng dân số thấp. Vì khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa là những địa bàn dân cư có điều kiện KTXH chưa được phát triển, hạ tầng cơ sở còn nghèo nàn, mức sống dân cư thấp, mặt bằng dân trí chưa cao, chất lượng dân số và trình độ sức khoẻ sinh sản còn nhiều hạn chế, nhiều phong tục tập quán lỗi thời, lạc hậu đang ăn sâu, bám rễ trong nhận thức, quan niệm của người dân.
– Tuyên truyền, vận động, giáo dục phải được triển khai sâu rộng, các thông điệp liên quan đến việc thực hiện mục tiêu chính sách cần cụ thể, rõ ràng, phù hợp với từng nhóm đối tượng dân cư. Cần tạo ra môi trường xã hội thuận lợi để các cộng đồng dân cư dễ dàng tiếp cận và tiếp nhận đầy đủ thông tin nhằm thực hiện tốt yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong chính sách dân số.
– Tăng cường hoạt động của các kênh truyền thông cả gián tiếp lẫn trực tiếp. Tăng thời lượng phát sóng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Xây dựng, mở rộng và phát triển các mô hình, các mạng lưới truyền thông trực tiếp cấp cơ sở. Khuyến khích phát triển kênh truyền thông dân gian như hoạt động văn nghệ ở các cơ sở, xã, phường…
– Tăng cường và đẩy mạnh công tác tư vấn, đối thoại. Đa dạng hoá các loại hình tư vấn, coi trọng tư vấn tại các cơ sở y tế và tư vấn từ các công tác viên dân số đối với các cá nhân, gia đình và các nhóm đối tượng riêng. Chú trọng và quan tâm nhiều hơn đến loại hình tuyên truyền này, vì nó phù hợp và mang lại hiệu quả cao đối với các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo khó, nơi mà các phương tiện truyền thông đại chúng khó thâm nhập và hiệu quả tuyên truyền, giáo dục thấp. Tuy nhiên, để đạt hiệu quả cao hơn trong công tác tư vấn, thường xuyên quan tâm đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực, kỹ năng tuyên truyền và tư vấn cho đội ngũ cán bộ làm công tác trong lĩnh vực này.
– Đầu tư thoả đáng về nhân, tài, vật, lực để đảm bảo đủ nguồn lực, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chương trình, nhất là đối với các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo khó phải dành cho họ những sự ưu tiên thoả đáng.
– Đưa giáo dục DS-SKSS-KHHGĐ, giáo dục giới tính, giáo dục gia đình, v… vào chương trình giảng dạy trong và ngoài nhà trường. Tiến hành xây dựng các chương trình, kế hoạch giáo dục, đào tạo bồi dưỡng kiến thức DS-KHHGĐ-SKSS, nhằm nâng cao kiến thức, hiểu biết, làm nền tảng cơ sở cho việc chuyển đổi hành vi, hình thành ý thức đối với thanh niên, các bậc cha mẹ và các thế hệ tương lai để họ có thể chấp nhận quy mô gia đình lý tưởng, coi đó như là một chuẩn mực xã hội.
Những biện pháp hành chính – pháp lý.
Tính pháp lý-hành chính của chính sách dân số được thể hiện trước hết ở chỗ nó được thi hành và bảo vệ bằng pháp luật của Nhà nước. Những quy định, chế độ về mặt giá trị định lượng và về trách nhiệm trong chính sách dân số phải được tổ chức, thực hiện với tư cách như là những văn bản pháp quy của Nhà nước. Do vậy, hiệu lực, hiệu quả của các giải pháp hành chính- pháp lý rất cao.
Có thể nêu ra một số các biện pháp hành chính – pháp lý của chính sách dân số như sau:
– Ban hành và thực hiện thống nhất một chính sách dân số trong cả nước với tư cách là một văn bản pháp quy của Nhà nước.
– Đưa ra những quy định pháp luật cụ thể trong những biện pháp của chính sách dân số, đặc biệt những quy định có tính trách nhiệm và định lượng. Ví dụ: Luật hôn nhân gia đình quy định tuổi kết hôn cho nam và nữ; chế độ một vợ một chồng; pháp lệnh dân số Việt Nam quy định cấm siêu âm phát hiện, thông báo giới tính thai nhi; chính sách khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi; quy định về kiểm tra sức khỏe tiền hôn nhân, về sàng lọc trẻ sơ sinh để phát hiện trẻ khuyết tật nhằm can thiệp sớm sẽ góp phần vào việc nâng cao chất lượng dân số; nhiều quy định về quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ y tế và các tổ chức y tế khi thực hiện các biện pháp của chính sách dân số và y tế; trách nhiệm của các cấp lãnh đạo các địa phương, các cơ quan ban ngành, các tổ chức sản xuất kinh doanh.. về việc thực hiện những mục tiêu và biện pháp của chính sách dân số, quyền và nghĩa vụ của công dân khi thực hiện các mục tiêu và giải pháp của chính sách dân số.
– Những văn bản quy định và hướng dẫn thực hiện liên quan đến các biện pháp hành chính- pháp lý phải thích hợp cho từng đối tượng, thậm chí cho cả các tổ chức Đảng và đoàn thể.
Điều cần nhấn mạnh khi quyết định và thực hiện các mục tiêu và những biện pháp chính sách dân số là: phải lấy truyền thống giáo dục là chính, tránh những cưỡng bức thô bạo, đồng thời phải nghiêm chỉnh chấp hành những quy định pháp luật của nhà nước trong chính sách dân số.
Những biện pháp chuyên môn – kỹ thuật.
Y tế đóng một vai trò rất quan trọng đối với sự điều tiết quá trình tăng trưởng dân số. Một mặt, với sự phát triển của hệ thống y tế và những thành tựu đạt được trong lĩnh vực khoa học y học, mạng lưới y tế không ngừng được mở rộng đã góp phần đáng kể vào việc hạ thấp mức chết và kéo dài tuổi thọ của người dân. Mặt khác, bằng những biện pháp y tế có thể can thiệp, tác động điều chỉnh (làm tăng, giảm) mức sinh, khống chế tốc độ gia tăng dân số.
Sự can thiệp của y tế đến việc giảm của mức sinh có thể tác động theo một số hướng chủ yếu sau:
– Tránh thụ thai:
Biện pháp tránh thai, là một trong những phương tiện kỹ thuật được sử dụng rất phổ biến trong lĩnh vực quản lý mức sinh, thực hiện quy mô gia đình lý tưởng. Hiện nay, BPTT được sử dụng tương đối phổ biến trong hầu hết các nước, trong đó có các nước đang phát triển và Việt Nam, coi đó như là một trong những phương cách hữu hiệu để thực hiện giảm sinh.
Tránh thụ thai bằng việc sử dụng các phương tiện tránh thai là hướng tác động chủ yếu từ phía y học đến việc hạ thấp tỷ suất sinh. Đây là hướng tác động ít có hại nhất đối với sức khỏe người mẹ và thường có điều kiện để áp dụng rộng rãi cho nhiều bộ phận, nhiều đối tượng dân cư. Vì vậy, các BPTT trở nên rất quan trọng và nó đóng vai trò như là yếu tố quyết định hàng đầu trong việc thực hiện điều chỉnh mức sinh.
Ngày nay, ngành y tế đã và đang sử dụng nhiều phương tiện tránh thai khác nhau (thuốc uống, vòng tránh thai…) và hiệu quả đạt được cũng rất khả quan, đã góp phần đáng kể cho việc điều chỉnh và kiểm soát mức sinh. Nếu được giải quyết tốt về cả hai phương diện kỹ thuật- y tế và vấn đề đầu tư – tài chính, thì đây chính là phương cách hữu hiệu nhất và sẽ được sử dụng rộng rãi, phổ biến và phù hợp với nhiều đối tượng dân cư.
– Nạo phá thai và triệt sản.
Mặc dù, nạo hút thai không được coi là biện pháp tránh thai trong chương trình KHHGĐ, nhưng trong nhiều trường hợp, nó cũng trở thành một trong những phương cách mà đôi khi nhiều phụ nữ cũng cần đến sự can thiệp của biện pháp kỹ thuật này để thực hiện mục tiêu tránh sinh ngoài ý muốn. Để đạt được các mục tiêu đề ra trong chính sách dân số, phá thai trở thành giải pháp tình thế nhưng rất cần thiết nhằm khắc phục hậu quả của những nguy cơ như vậy.
Đình sản và triệt sản cũng là một trong những giải pháp mang tính kỹ thuật – chuyên môn thường được sử dụng trong việc quản lý mức sinh, nó thuận tiện và thích hợp với cả phụ nữ và nam giới. Thực hiện đa dạng hoá các BPTT, trong đó mở rộng hình thức đình sản và triệt sản tạo điều kiện để thu hút nam giới cùng tham gia chia sẻ với phụ nữ trong lĩnh vực DS – KHHGĐ, nhất là khi dịch vụ đình sản nam dễ dàng, phổ biến và phát triển hơn.
(Nguồn tài liệu: Nguyễn Nam Phương, Giáo trình Dân số và phát triển)