Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng triết học phương Tây và thế giới từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, có ảnh hưởng lớn đối với triết học hiện đại.
1. Điều kiện ra đời và nét đặc thù của triết học cổ điển Đức
Về kinh tế – xã hội. Nước Đức từ đầu thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn là một quốc gia phong kiến cát cứ điển hình, lạc hậu về kinh tế và chính trị. Tình trạng cát cứ ấy đã gây trở ngại lớn đối với sự phát triển kinh tế. Về xã hội, giai cấp tư sản mới ra đời còn non yếu mọi mặt; quần chúng lao động bất bình với chế độ đương thời. Trong khi đó, ở Tây Âu, chủ nghĩa tư bản đã hình thành ở nhiều nước, đã đem lại một nền sản xuất phát triển mở đầu cho nền văn minh công nghiệp, khẳng định tính chất ưu việt của chủ nghĩa tư bản so với các chế độ phong kiến.
Về văn hóa và khoa học. Nước Đức ở thời kỳ này văn hóa, khoa học khá phát triển. Đó là kết quả của sự kế thừa tinh hoa văn hóa phương Tây trước đó, di sản văn hóa Đức, văn hóa Pháp, và các thành tựu khoa học tự nhiên đương thời.
Sự lạc hậu của nước Đức về kinh tế – xã hội, sự phát triển của các nước Tây Âu về kinh tế-xã hội, sự phát triển của khoa học đã thức tỉnh tính phản kháng của giai cấp tư sản Đức và đòi hỏi giai cấp tư sản Đức phải có cách nhìn mới về tự nhiên, xã hội, con người. Giai cấp tư sản Đức muốn làm cách mạng tư sản như các nước Tây Âu, muốn xây dựng nền triết học theo yêu cầu mới, song do mới ra đời còn yếu kém về số lượng, kinh tế và chính trị nên họ giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề của đất nước. Chính điều đó quy định nét đặc thù của triết học cổ điển Đức là nội dung triết học cách mạng dưới một hình thức triết học duy tâm, bảo thủ.
2. Một số nhà triết học tiêu biểu
a) Immanuen Cantơ (1724 – 1804)
Cantơ là đại biểu tiêu biểu cho triết học cổ điển Đức, người sáng lập triết học phê phán.
Thế giới quan
Thế giới quan của Cantơ phát triển qua hai thời kỳ: tiền phê phán và phê phán
THỜI KỲ TIỀN PHÊ PHÁN (1746 – 1770)
Thời kỳ này ông chú trọng nghiên cứu các vấn đề khoa học tự nhiên và triết học tự nhiên. Ban đầu ông chịu ảnh hưởng quan điểm duy tâm và thần học của Laibnitxơ và Vônphơ. Về sau, ông đứng về phía các quan niệm duy vật máy móc của Niutơn và Đềcáctơ để xây dựng thế giới quan độc lập của mình. Thế giới quan của Cantơ thời kỳ này, về cơ bản, thể hiện như một nhà duy vật về tự nhiên.
Nét tiêu biểu về triết học của Cantơ thời kỳ tiền phê phán là những quan niệm biện chứng về thế giới và các yếu tố của phép biện chứng thể hiện trong hai tác phẩm “Lịch sử tự nhiên và lý luận về vũ trụ” (1755) và “Kinh nghiệm đưa đại lượng phủ định vào triết học” (1763). Trong công trình “Lịch sử tự nhiên và lý luận về vũ trụ”, Cantơ cho rằng từ thời xa xưa, cả thế giới nằm trong trạng thái hỗn độn, nhờ lực vạn vật hấp dẫn, các hạt vật chất tụ lại thành những khối tinh vân. Thông qua lực hút và đẩy trong lòng những khối tinh vân mà xuất hiện những cơn gió xoáy làm cho các khối tinh vân kết đông lại tạo thành các hành tinh độc lập nhau.
Trên cơ sở định luật vạn vật hấp dẫn của Niutơn và từ các công trình nghiên cứu về trái đất, đại dương, Cantơ đã khám phá ra sự ảnh hưởng của lực hấp dẫn giữa trái đất và mặt trăng dẫn đến hiện tượng thuỷ triều. Đồng thời, Cantơ còn nêu lên giả thiết về sự tồn tại của các đại thiên hà, thuyết về tính tương đối của vận động và đứng im. Các công trình trên gắn với nhau bằng tư tưởng duy vật về sự phát triển tự nhiên của vũ trụ. Trong công trình “Kinh nghiệm đưa lại đại lượng phủ định vào triết học” (1763), ông rút ra kết luận sự có mặt của các lực đối lập là quy luật phổ biến của tự nhiên. Lý luận về mâu thuẫn này là cơ sở cho hệ thống biện chứng của các nhà triết học Đức sau này.
THỜI KỲ PHÊ PHÁN (1770 – 1804)
Hệ thống triết học phê phán của Cantơ được thể hiện trong ba tác phẩm: “Phê phán lý tính thuần túy” (1781), “Phê phán lý tính thực tiễn” (1788), “Phê phán năng lực thực tiễn” (1790). Trong ba tác phẩm này, trước hết Cantơ đã trình bày lý luận phê phán về nhận thức, đạo đức và giá trị. Vấn đề nhận thức được nghiên cứu trong triết học lý luận, vấn đề đạo đức được nghiên cứu trong triết học thực tiễn, vấn đề giá trị được nghiên cứu trong mỹ học.
Thứ hai, ông chỉ rõ nhiệm vụ của triết học phê phán là không đi sâu vấn đề nguồn gốc thế giới mà đi sâu tìm hiểu con người, đánh giá khả năng của trí tuệ: “tôi có thể biết được cái gì?”, “tôi cần phải làm gì?”, “tôi có thể hy vọng cái gì?”. Bản chất của triết học phê phán là tự ý thức về mình.
Thứ ba, là phép biện chứng tiêu cực đã nhấn mạnh tính tất yếu của mâu thuẫn trong lý tính, ông cho lý tính không đạt tới vật tự nó, buộc phải thỏa mạn với hiện tượng. Bản thân phép biện chứng là “Lôgíc của vẻ bề ngoài”. Toàn bộ triết học phê phán của Cantơ chứa đựng tinh thần nhân đạo với mục đích đem lại cho con người cách nhìn mới về thế giới, về bản thân mình, đưa con người tới tự do và hạnh phúc. ở tài liệu này, chúng ta chỉ nghiên cứu vấn đề nhận thức (triết học lý luận) và vấn đề đạo đức (triết học thực tiễn) của Cantơ.
Lý luận nhận thức của Cantơ
Lý luận nhận thức (triết học lý luận) của Cantơ nghiên cứu khả năng nhận thức của con người làm rõ “tôi có thể biết được cái gì?”
– Điểm xuất phát để nhận thức bất kỳ cái gì là phải nghiên cứu công cụ của nhận thức và khả năng của nhận thức. Cantơ nêu ra những vấn đề như vậy là đúng vì nhiệm vụ của triết học là phải nghiên cứu các khả năng của nhận thức, mối liên hệ giữa các tri thức với thực tại khách quan, nghiên cứu các mức độ, các hình thức, các điều kiện và tiêu chuẩn đúng đắn của nhận thức. Song, cách đặt vấn đề trong triết học của Cantơ không đúng ở chỗ khả năng nhận thức của con người là khả năng lý trí thuần tuý đã có sẵn, không thay đổi ở bên ngoài quá trình nhận thức. Sai lầm về triết học của Cantơ là tách rời khả năng nhận thức với quá trình nhận thức, tách mình ra khỏi lịch sử nhận thức.
– Cantơ coi các sự vật của thế giới là “vật tự nó” tồn tại ở bên ngoài ý thức của con người. “Vật tự nó” tác động lên các giác quan cho ta những cảm giác về chúng, những cảm giác ấy không phải là hình ảnh sự vật mà là những hiện tượng của “Vật tự nó”, trong trường hợp này “vật tự nó” được hiểu những gì thuộc về hiện tượng. Thế giới hiện tượng này liên quan đến kinh nghiệm cảm tính, đây là thế giới khả giác, khả nghiệm. Còn “vật tự nó” với cách hiểu là bản chất của mọi sự vật khách quan tồn tại ngoài ta là thuộc thế giới siêu nghiệm, về nguyên tắc con người không nhận thức được chúng. Như vậy, học thuyết “vật tự nó” của Cantơ là mâu thuẫn, “nó dung hòa chủ nghĩa duy vật và duy tâm”[1]. Các nhà triết học đã phê phán Cantơ từ hai phía: các nhà duy tâm và phái hoài nghi “đã bác bỏ học thuyết của Cantơ về “vật tự nó”, coi đó là một nhân nhượng không nhất quán đối với chủ nghĩa duy vật”[2]. Còn triết học duy vật biện chứng đã kết luận rằng “Dứt khoát là không có và không thể có bất kỳ sự khác nhau nào về nguyên tắc giữa hiện tượng và vật tự nó. Chỉ có sự khác nhau giữa cái đã nhận thức và cái chưa được nhận thức”[3].
– Lý luận về “vật tự nó” là cánh cửa đi vào triết học phê phán của Cantơ. Từ đây Cantơ coi đối tượng của lý luận nhận thức không phải là nghiên cứu giới tự nhiên như chính bản thân nó mà là nghiên cứu năng lực của nhận thức, khả năng nhận thức của con người.
Khi nghiên cứu năng lực của nhận thức, Cantơ đã lập luận về hai loại nhận thức là nhận thức hạn chế chưa hoàn thiện và nhận thức khoa học. Nhận thức hạn chế chưa hoàn thiện là dựa trên cơ sở kinh nghiệm, không chính xác, không phổ biến và không tất yếu, đó không phải là nhận thức khoa học chặt chẽ. Còn nhận thức khoa học là tuyệt đối chính xác, phổ biến, tất yếu. Ông cho rằng bất kỳ luận đề nào của toán học cũng giải đáp được yêu cầu ấy, vì mọi luận đề toán học là Tiên thiên (a priori) tức là có trước kinh nghiệm, ngoài kinh nghiệm, xuất phát từ lý tính. Quan điểm ấy là duy tâm vì các tri thức toán học đều xuất phát từ cơ sở thực tế, là sản phẩm của một quá trình phức tạp lâu dài của tư duy trừu tượng hóa. Cantơ đã tách rời cái tuyệt đối ra khỏi cái tương đối, không thấy mối liên hệ biện chứng giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối.
Khi nghiên cứu các khả năng nhận thức Cantơ cho rằng nhận thức trải qua ba giai đoạn là trực quan cảm tính, giác tính phân tích và lý tính:
Trực quan cảm tính là giai đoạn đầu của nhận thức. Đầu tiên “vật tự nó” tác động vào các giác quan làm xuất hiện mớ cảm giác lộn xộn, sau đó được đưa vào trật tự nhờ có hình thức tiên thiên của không gian và thời gian. Nhờ vậy, người ta biết được vật này “sau” vật kia, “bên cạnh” vật kia. Đó là kết quả sự hoạt động của ý thức con người, chứ thực tế, những vật tồn tại như thế nào ở bên ngoài ý thức của con người thì không thể biết được. Vì không gian và thời gian là là tiên thiên nên nó là phổ biến và tất yếu. Lý thuyết duy tâm về không gian và thời gian của Cantơ trái với quan điểm duy vật coi không gian và thời gian là những hình thức khách quan của sự tồn tại vật chất.
Giai đoạn giác tính và phạm trù là giai đoạn hai nhằm đưa tri giác cảm tính của giai đoạn trước vào kinh nghiệm, được Cantơ gọi là phân tích tiên nghiệm. Giác tính là phép suy diễn tiên nghiệm các khái niệm, hay là tư duy sử dụng khái niệm. Giác tính là năng lực bẩm sinh do trời phú, có nhiệm vụ nghiên cứu nguồn gốc, tổ chức các tri giác cảm tính vào các khái niệm tức tạo ra khái niệm. Bằng cách đó, tri giác cá nhân, cảm tính trở thành tri giác khách quan, phổ quát và tất yếu. Để thực hiện được năng lực ấy, giác tính phải xây dựng được một hệ thống phạm trù. Hệ thống phạm trù của Cantơ có 12 phạm trù, chia thành bốn nhóm.
Nhóm phạm trù lượng : Nhất thể, đa thể, toàn thể
Nhóm phạm trù chất : Hiện thực, phủ định, hạn định
Nhóm phạm trù quan hệ : Bản chất và tồn tại độc lập, nguyên nhân và kết quả
Nhóm phạm trù hình thức : Khả năng và không khả năng
Tồn tại và không tồn tại
Tất yếu và ngẫu nhiên(1)
Dưới hệ thống phạm trù Cantơ đã nêu lên ba điều lưu ý: Thứ nhất, hệ thống phạm trù có bốn nhóm chia làm hai dạng: lượng – chất và quan hệ – hình thái. Dạng lượng – chất liên quan tới đối tượng trực quan, các phạm trù lượng liên quan tới toán học, các phạm trù chất liên quan tới động lực học. Dạng quan hệ – hình thái liên quan tới sự tồn tại của đối tượng đó. Thứ hai, mỗi nhóm có ba phạm trù, trong đó phạm trù thứ ba là hợp đề của hai phạm trù trước. Thứ ba, các phạm trù này không phải là sản phẩm của sự phản ánh thế giới khách quan mà là sản phẩm riêng của giác tính, chỉ là hình thức của tư tưởng chưa có nội dung. Để có nội dung và trở thành tri thức thì các phạm trù phải được vận dụng vào kinh nghiệm cảm tính. Sự thống nhất giữa tư duy giác tính và kinh nghiệm cảm tính trong thời gian gọi là “đồ thức tiên nghiệm”.
Hạn chế của thuyết giác tính phân tích và phạm trù ở chỗ: trước hết, thuyết này dựa vào chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm, không thấy vai trò của thực tiễn đối với nhận thức; thứ hai, không thấy bước chuyển biến biện chứng từ nhận thức cảm tính lên giác tính, vì vậy ông là người điều hòa giữa chủ nghĩa duy cảm và duy lý Cận đại thế kỷ XVII – XVIII; thứ ba, là tách rời cái chung khỏi cái riêng, nên ông coi cảm tính là nguồn gốc tri thức của cái riêng, còn giác tính là nguồn gốc tri thức cái chung.
Giai đoạn lý tính và antinomia.
Lý tính được hiểu là trí tuệ của con người nói chung; giai đoạn lý tính được Cantơ gọi là “Phép biện chứng tiên nghiệm”
Lý tính của con người có khát vọng xâm nhập vào lĩnh vực bản chất “vật tự nó” để đạt tới tri thức trọn vẹn và tuyệt đối. Lý tính khác với giác tính là đề ra những ý niệm của giác tính rồi suy lý trên ý niệm đó. Nhưng khả năng nhận thức của con người chỉ cho phép nhận thức trong khuôn khổ hiện tượng. Điều đó nảy sinh mâu thuẫn (antinomia). Các mâu thuẫn không phải là những lỗi logíc mà người ta có thể khắc phục được mà là những mâu thuẫn không thể tránh khỏi trong bản thân lý tính. Có bốn mâu thuẫn, mỗi mâu thuẫn được cấu tạo hai vế chính đề và phản đề. Phía chính đề là lập trường của các nhà triết học duy tâm và quyết định luận thường bàn trong lịch sử; phía phản đề là lập trường của các nhà duy vật và vô định luận đã bàn trước đó.
Chính đề | Phản đề | |
Antinomia 1 | Thế giới có điểm đầu trong thời gian và có giới hạn trong không gian | Thế giới là vô cùng tận cả về không gian và thời gian |
Antinomia 2 | Thế giới là một chỉnh thể phức tạp được tạo thành từ những bộ phận đơn giản | Thế giới không thể phân chia được. Không có gì trên thế giới là đơn giản |
Antinomia 3 | Trong tự nhiên tồn tại cả quan hệ nhân quả và tự do | Không có tự do, mọi vật đều diễn ra theo những quy luật tất yếu |
Antinomia 4 | Trong tự nhiên tồn tại quan hệ tất yếu | Không ở đâu tồn tại quan hệ tất yếu cả. |
Cách giải quyết mâu thuẫn của các nhà tư tưởng trước Cantơ là phân tích đúng sai, sau đó triệt tiêu hai mặt đối lập. Cantơ coi các mâu thuẫn là những đối lập biện chứng. Vì thế, tùy từng trường hợp cụ thể, cả hai đối lập đều đúng hoặc đều sai. Mặt hạn chế của thuyết các Antinomia, trước hết là Cantơ chỉ thừa nhận mâu thuẫn trong lý tính của con người, chưa thấy được mâu thuẫn trong hiện thực khách quan; thứ hai, các antinomia chưa phải là mâu thuẫn biện chứng vì giữa các vế chưa có sự thống nhất và chuyển hóa lẫn nhau; thứ ba, giải quyết mâu thuẫn không chỉ dừng lại ở sự phân tích từng mặt đối lập rồi kết luận đúng sai như Cantơ tưởng, thực tế quá trình xẩy ra và giải quyết mâu thuẫn là động lực thúc đẩy sự phát triển. Mặt tích cực của thuyết các antinomia trước hết đó là bản chất khách quan của lý tính; thứ hai ông là người đầu tiên tìm cách bao quát toàn bộ nguyên lý tư duy đối lập nhau của thời đại trên một quan niệm thống nhất; thứ ba ông là người tìm ra các vấn đề mang tính nghịch lý của quá trình nhận thức, trong đó nghịch lý lớn nhất là “vật tự nó” không thể nhận thức được, nhưng khát vọng trí tuệ là muốn nhận thức nó.
Tư tưởng đạo đức, lịch sử và pháp quyền của Cantơ
Tư tưởng đạo đức, chính trị – xã hội (triết học thực tiễn) của Cantơ nghiên cứu hoạt động thực tiễn của con người trong xã hội nhằm giải đáp vấn đề “tôi cần phải làm gì?”. Trong hệ thống triết học phê phán của Cantơ , triết học lý luận và triết học thực tiễn đối lập nhau vì trong triết học lý luận ông thừa nhận “vật tự nó” là bất khả tri, còn trong thực tiễn, con người thường coi “vật tự nó” là đối tượng của mình.
Cantơ là người đã đặt vai trò thực tiễn cao hơn lý luận. Thực tiễn, theo Cantơ, nghĩa hẹp là các hoạt động đạo đức, nghĩa rộng là toàn bộ hoạt động chính trị, pháp quyền, văn hóa của con người. Tuy ông chưa nêu lên được vai trò của thực tiễn sản xuất vật chất, nhưng triết học thực tiễn của ông có nhiều tư tưởng có giá trị cần được nghiên cứu.
Trong đạo đức học, Cantơ theo lập trường duy lý, ông coi lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý, chuẩn mực đạo đức. Ông cho rằng các khát vọng cảm tính chỉ đưa con người tới chỗ hưởng thụ cá nhân, ích kỷ, phi đạo đức. Đối với nhân cách nói chung, đạo đức nói riêng thì chỉ cần lý tính thuần tuý kiềm chế tính tự ái, hạn chế nó là đủ[4]. Từ đó, ông nêu lên nguyên tắc cơ bản của đạo đức là tuân theo mệnh lệnh tuyệt đối, chỉ có hành động nào của con người phù hợp với mệnh lệnh tuyệt đối thì mới được coi là có đạo đức. Cụ thể, mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi mọi người trong hoạt động cộng đồng phải sống phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình, tôn trọng mọi người, sống theo lẽ phải, tôn trọng sự thật. Tiêu chuẩn đánh giá các giá trị đạo đức là có lợi cho xã hội và công dân. Mệnh lệnh tuyệt đối là quy luật đạo đức chung đòi hỏi mọi người, mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp xã hội phải thực hiện. Tất cả mọi công dân đều bình đẳng trước quy luật và chuẩn mực đạo đức. Phạm trù trung tâm của đạo đức học là tự do. “Ý chí tự do và ý chí tuân theo các quy luật đạo đức là như nhau”[5].
Khía cạnh tích cực về đạo đức học của Cantơ trước hết là đã thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa chuẩn mực đạo đức với hệ thống luật pháp, khẳng định được tính tất yếu của cơ sở pháp lý đối với chuẩn mực đạo đức, đặt tiêu chí đạo đức trong mối liên hệ hữu cơ với pháp quyền. Thứ hai, đạo đức học của Cantơ chứa đựng nhiều tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Mệnh lệnh tuyệt đối đã khuyên mỗi người hãy “hành động tới mức tối đa sao cho điều đó được đưa vào cơ sở lập pháp phổ biến”[6]. Thước đo “lập pháp phổ biến” là có lợi cho xã hội, cho công dân. Khía cạnh hạn chế của đạo đức học Cantơ là còn mang tính chất duy tâm, duy lý, chưa đánh giá đúng mức sự tác động và chế định của kinh tế chính trị – xã hội, văn hóa đối với hoạt động đạo đức; là còn thể hiện không tưởng, phi lịch sử, phi giai cấp khi ông khuyên mọi người không kể giai cấp, quốc gia, dân tộc… hãy làm theo mệnh lệnh tuyệt đối.
Cantơ coi các quan niệm về lịch sử chính trị – xã hội là đạo đức học ứng dụng, cho nên nó thuộc về triết học thực tiễn. Cantơ coi lịch sử là phương thức tồn tại của con người. Một mặt đó là một quá trình hoạt động, khả năng và bản chất con người ngày càng phát triển; mặt khác đây là lĩnh vực con người thực hiện mục đích lý tưởng của mình. Vì vậy, tiến trình lịch sử nhân loại là sự tiếp tục quá trình phát triển của lịch sử tự nhiên, nó diễn ra theo xu hướng ngày càng tiến bộ và hoàn thiện. Đồng thời Cantơ còn coi lịch sử là một quá trình thống nhất phát triển theo những quy luật nội tại của nó chứ không phải do chúa trời tạo ra. Cantơ khẳng định mâu thuẫn xã hội là động lực thúc đẩy lịch sử phát triển vì vậy sự xung đột giữa các giai cấp, đẳng cấp, tầng lớp xã hội là phù hợp quy luật khách quan của lịch sử[7].
Về nhà nước, ông cho rằng nhà nước là sự liên kết mọi người trong khuôn khổ luật pháp nhằm giám sát và bảo vệ bình đẳng mọi công dân. Cùng khế ước xã hội, ông nhấn mạnh tính tất yếu hình thành nhà nước do mâu thuẫn trong sự phát triển nội tại của xã hội. Nhà nước ra đời nhằm giải quyết những đối kháng, điều hòa sự phát triển xã hội theo hướng ngày càng hoàn thiện vì lợi ích con người. Trong các hình thức nhà nước ông coi nhà nước cộng hòa là phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội. Ông chịu ảnh hưởng tư tưởng của RútXô, vừa coi chiến tranh là một động lực thúc đẩy lịch sử, vừa kêu gọi các dân tộc thiết lập quan hệ hoà bình, hữu nghị. Ông kêu gọi các quốc gia đoàn kết để xây dựng một thế giới văn minh, nhân đạo. Dù chưa thấy được cơ sở kinh tế, hoạt động sản xuất vật chất trong tiến trình phát triển lịch sử, nhưng giá trị tư tưởng lịch sử và pháp quyền của ông đã đặt nền móng cho quan niệm duy vật lịch sử sau này của Mác coi trình độ giải phóng con người là thước đo đánh giá sự tiến bộ của quá trình lịch sử nhân loại.
Triết học Cantơ thực sự là một cuộc đảo lộn Copécníc trong triết học: hướng triết học từ nghiên cứu tự nhiên tới con người như một chủ thể tồn tại và hoạt động. Cantơ đã đặt nền móng cho quan niệm biện chứng về tự nhiên và lịch sử. Đồng thời Cantơ là tiền bối của nhiều trào lưu triết học phương Tây hiện đại.
b) Gióoc-giơ Vinhem Phriđrích Hêghen (1770 – 1831)
Hêghen là nhà biện chứng, nhà triết học duy tâm khách quan Đức.
Hệ thống tác phẩm của Hênghen: “Hiện tượng học tinh thần” (1807), “Giáo dục dự bị triết học” (1809 – 1811), “Khoa học logíc” (1812 – 1816), “Bách khoa toàn thư các khoa học triết học” (1833), “Triết học về lịch sử” (1837)…
Triết học của Hêghen đã phản ánh một cách độc đáo tính chất mâu thuẫn sự phát triển của nước Đức ngay trước khi có cuộc cách mạng tư sản, trong đó thể hiện tính chất hai mặt của giai cấp tư sản Đức mà nhà tư tưởng đại diện của nó là Hêghen. Do đó, triết học Hêghen, một mặt, có những xu hướng tiến bộ biểu hiện sự chuẩn bị về mặt tư tưởng của cuộc cách mạng tư sản ở Đức; mặt khác lại có tư tưởng bảo thủ, tính không triệt để, thỏa hiệp với bọn phản động của giai cấp tư sản Đức. Vì vậy, khi nghiên cứu triết học Hêghen cần phân biệt hai khía cạnh đối lập nhau là hệ thống siêu hình bảo thủ và phương pháp biện chứng xuyên qua toàn bộ triết học Hêghen.
Hệ thống triết học duy tâm khách quan
Hêghen xây dựng hệ thống triết học của mình trong “Hiện tượng học tinh thần” (1807). Hệ thống triết học của Hêghen đã kế thừa những tư tưởng triết học của Hêraclít, Platôn, Arixtốt… thời Hy Lạp cổ đại; đồng thời hệ thống triết học của ông có liên hệ mật thiết với tư tưởng triết học của Cantơ, Phíchtơ, Senlinh. Cantơ tách rời lý luận với thực tiễn cho rằng con người không thể nhận thức được “vật tự nó”. Phíctơ lại kết hợp giữa chủ thể và khách thể, coi ý thức của con người sản sinh ra tất cả. Senlinh đưa ra quan niệm “đồng nhất tuyệt đối” giữa khách thể với chủ thể, tư duy với tồn tại. Hêghen phát triển tư tưởng về sự đồng nhất bằng “ý niệm tuyệt đối vận động và phát triển”. “ý niệm tuyệt đối” là khái niệm trừu tượng được tuyệt đối hóa và coi như thực thể độc lập riêng biệt, được coi là nguồn gốc của mọi sự vật hiện tượng của tự nhiên và xã hội. Phát triển theo Hêghen là một quá trình phủ định biện chứng, trong đó liên tiếp diễn ra cái mới thay thế cái cũ, kế thừa cái cũ. Nói cách khác, phát triển là một quá trình “lọc bỏ”, vượt qua, cái cũ mất đi trở thành điều kiện hình thành cái mới. Sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối” là quá trình “ý niệm tuyệt đối” vận động “tự tha hóa” thành giới tự nhiên và sau đó trở về với bản thân mình – tức là đạt đến “ý niệm tuyệt đối”. Từ luận đề này, Hêghen dùng tam đoạn thức (chính đề, phản đề, hợp đề) quy luật của logíc học, để trình bày hệ thống triết học duy tâm khách quan của mình – tức là trình bày sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối” theo ba giai đoạn:
– Logíc học (chính đề). Đây là giai đoạn sự phát triển của ý niệm ngay trong lòng nó, trong “nguyên chất của tư duy thuần túy” – trong “logíc học”. Hêghen đã trình bày sự vận động của “ý niệm tuyệt đối” đi từ thấp đến cao qua ba học thuyết “Tồn tại”, “Bản chất”, “Khái niệm” giống như đứa trẻ lúc đầu còn non kém về tư duy, dần dần tri thức được bổ sung ngày càng hoàn chỉnh.
– Triết học tự nhiên (phản đề, phủ định chính đề) là giai đoạn sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối”dưới hình thức “tồn tại khác”, tức dưới hình thức tự nhiên. Nói cách khác, “ý niệm tuyệt đối” đã phát triển đầy đủ trong lòng nó, “tha hóa” ra cái khác nó, đấy là giới tự nhiên, là thế giới vật chất đối lập với “ý niệm tuyệt đối”. Hêghen đã trình bày sự vận động của thế giới tự nhiên cũng từ thấp đến cao qua ba giai đoạn: “tính máy móc”, “tính vật lý”, “tính hữu cơ” – tức là từ vô cơ, đến hữu cơ, đến sự sống, đến con người.
– Triết học tinh thần (hợp đề, phủ định của phủ định) là giai đoạn sau khi giới tự nhiên phát triển từ thấp đến cao: vô cơ – hữu cơ – sinh vật – con người, thì ý thức của con người là một dạng “ý niệm tuyệt đối” và sự phát triển của nó cũng từ thấp đến cao qua “tinh thần chủ quan”, “tinh thần khách quan”, “tinh thần tuyệt đối” tức đến triết học Hêghen là hoàn chỉnh, trở thành tuyệt đối.
Hêghen cho rằng quá trình tự phát triển của “Ý niệm tuyệt đối” cùng với sự tự nhận thức của “Ý niệm tuyệt đối” được hoàn thành bởi hệ thống triết học của ông. Ăngghen coi hệ thống này là “cái thai đẻ non khổng lồ và cuối cùng trong loài của nó”(1). Tuy nhiên, so với triết học trước đó đây là hệ thống bao trùm, phong phú. Qua “Hiện tượng học tinh thần, logíc học, triết học tự nhiên, triết học tinh thần”, “Hêghen cố gắng phát hiện ra sợi chỉ của sự phát triển xuyên suốt lĩnh vực ấy”. Nếu người ta đừng dừng lại ở kết cấu ấy “mà đi sâu hơn nữa vào trong tòa nhà đồ sộ, người ta sẽ thấy trong ấy có vô số những vật quý giá đến nay vẫn còn giữ được toàn bộ giá trị của chúng”(2)
Phương pháp biện chứng trong hệ thống triết học duy tâm của Hêghen
Thành quả quan trọng của triết học Hêghen là phương pháp biện chứng mà hạt nhân hợp lý của nó là tư tưởng về sự phát triển. Phương pháp biện chứng của Hêghen được thể hiện xuyên qua toàn bộ hệ thống từ logíc học, triết học tự nhiên đến triết học tinh thần.
– Logíc học. Khi trình bày “ý niệm tuyệt đối” vận động và phát triển Hêghen cho rằng đó là tự vận động nội tại của “ý niệm tuyệt đối”. Tự vận động tức là sự thay đổi hình thức khác nhau của “ý niệm tuyệt đối” hay theo chữ Hêghen dùng là sự thay đổi, sự vận động của khái niệm. Sự vận động đi lên của những khái niệm, theo Hêghen đó là sự tất yếu của mối liên hệ và sự xuất hiện nội tại của những khác biệt ở ngay bên trong những khái niệm ấy. Lênin tìm thấy hạt nhân hợp lý trong phương pháp biện chứng của Hêghen là sự tự vận động. Nội dung hợp lý sâu sắc trong quan diểm trên của Hêghen theo Lênin là mối liên hệ tất yếu, là nguồn gốc nội tại của những sự khác nhau(3)
– Khi trình bày “ý niệm tuyệt đối” phát triển, Hêghen thừa nhận tồn tại, bản chất, khái niệm là ba sự quy định, ba hình thức thể hiện chủ yếu trong quá trình phát triển ở lĩnh vực logíc. Sự dự đoán biện chứng của quá trình nhận thức của con người về giới tự nhiên như vậy là mâu thuẫn với hệ thống triết học của ông ngay trong cấu tạo logíc (tồn tại, bản chất, khái niệm). Hạt nhân hợp lý trong logíc học của Hêghen là phù hợp với quá trình suy nghĩ của con người: mới nhìn vào sự vật thấy tồn tại, đi sâu vào sự vật tìm ra bản chất, khi nắm bản chất ta rút ra khái niệm (1).
+ Học thuyết Tồn tại: theo Hêghen, tồn tại trong khi phát triển, luôn nhận được sự quy định ràng buộc lẫn nhau và chuyển hoá lẫn nhau giữa số lượng và chất lượng. Chất theo Hêghen là tính quy định nội tại của thực tại và nhờ có chất lượng mà nó là nó, khi mất chất lượng thì không còn là nó. Số lượng là tính quy định bên ngoài của tồn tại. Hêghen cho rằng khái niệm chất lượng chuyển thành khái niệm số lượng và ngược lại. Kết quả vận động như vậy thì xuất hiện khái niệm “độ” với tư cách là sự thống nhất giữa chất lượng và số lượng, tức số lượng có tính chất chất lượng. Sự biến đổi từ chất lượng sang số lượng và từ số lượng sang chất lượng, theo Hêghen là biện chứng của những khái niệm, chấm dứt quan niệm siêu hình về nó. Đây là sự dự đoán hợp lý của Hêghen về sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi căn bản về chất và ngược lại.
+ Học thuyết Bản chất: theo Hêghen khái niệm tồn tại khi đạt được tính toàn vẹn của nó trong “độ” thì nhường chỗ cho khái niệm bản chất. Hêghen cho rằng ban đầu của bản chất là sự đồng nhất giữa những sự quy định khác nhau, rồi sau đó, trong sự đồng nhất ấy xuất hiện sự khác biệt, rồi sự khác biệt chuyển thành sự đối lập và cuối cùng xuất hiện mâu thuẫn. Hêghen khẳng định mâu thuẫn là vốn có bên trong các khái niệm, nhờ mâu thuẫn mà khái niệm biểu hiện được hoạt động của chúng và phát triển được. Hêghen cho rằng tư duy siêu hình không thấy được điều đó. Đây là dự đoán của Hêghen về mâu thuẫn, coi mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động, là nguyên lý của sự phát triển.
Hêghen đã nêu tư tưởng hợp lý cho rằng hiện tượng và bản chất ràng buộc lẫn nhau, rằng bản chất được thể hiện ra trong hiện tượng, rằng hiện thực là sự thống nhất giữa hiện tượng và bản chất. Trên cơ sở quan điểm ấy, Hêghen xét đến quy luật của hiện tượng, ông coi quy luật là tính bền vững bảo tồn của hiện tượng. Khi hiện tượng này chuyển qua hiện tượng khác, nổi lên tính ổn định vững bền, một sự đồng nhất nào đó, sự đồng nhất ấy là quy luật của hiện tượng. Quy luật không tồn tại bên kia hiện tượng mà trực tiếp vốn có bên trong hiện tượng, là sự phản ánh yên tĩnh những hiện tượng. Lênin ghi chú lời Hêghen “Quy luật là cái vững bền (cái được bảo tồn) trong hiện tượng”, “Quy luật là cái đồng nhất trong hiện tượng”, Quy luật = phản ánh yên tĩnh của những hiện tượng. Đó là một định nghĩa cực kỳ duy vật và đặc biệt đúng (chữ ruhige = yên tĩnh)(1). Quy luật nắm lấy cái gì là yên tĩnh, chính vì vậy mà quy luật, mọi quy luật, đều là chật hẹp, không đầy đủ, gần đúng.
Hêghen cũng đã phê phán những định nghĩa có tính chất hình thức về khả năng và hiện thực. Hêghen cho rằng trong khi khả năng của vật A có chứa đựng khả năng không A. Vì vậy, phải xét khả năng trong sự thống nhất với hiện thực thì mới khắc phục được cách hiểu siêu hình về khả năng và hiện thực. Sự vận động của khái niệm khả năng và hiện thực khi đã đạt đến sự thống nhất của chúng, dẫn đến khái niệm ngẫu nhiên. Hêghen cho rằng sự phát triển của hiện thực phải phục tùng tính tất yếu, nghĩa là mọi cái hiện thực chỉ có thể xảy ra theo cách này chứ không thể theo cách khác. Nhưng hiện thực là toàn vẹn, là cụ thể, hình thức biểu hiện của nó có thể thế này, có thể thế khác, do đó cùng với tính tất yếu, hiện thực có cả tính ngẫu nhiên.
Quan niệm biện chứng của Hêghen về nguyên nhân và kết quả cũng rất đáng chú ý. Hêghen cho rằng cũng là một sự vật mà lúc này thì biểu hiện ra là nguyên nhân, lúc khác thì biểu hiện ra là tác động[8]. Hêghen hiểu quan hệ nhân quả là tác động qua lại và yêu cầu về sự trung gian (là vấn đề chủ yếu khi ứng dụng quan hệ nhân quả). Nhận thấy nội dung hợp lý quan niệm nhân quả của Hêghen, Lênin cho rằng khi đọc Hêghen người ta thấy ông ít nói đến tính nhân quả hơn Cantơ, vì ở Hêghen, tính nhân quả chỉ là một trong những tính quy định của mối liên hệ phổ biến mà ông đã nắm được sâu sắc, toàn diện hơn nhiều, ông đã luôn nhấn mạnh mối liên hệ đó[9].
Vậy, tư tưởng về mâu thuẫn, về bản chất và hiện tượng, về khả năng và hiện thực, về nguyên nhân và kết quả là sự dự đoán của Hêghen về vai trò của mâu thuẫn trong sự phát triển, về sự thống nhất biện chứng giữa bản chất và hiện tượng, giữa khả năng và hiện thực, giữa nguyên nhân và kết quả.
+ Học thuyết Khái niệm: là sản phẩm được rút ra từ bản chất, là sự quy định mới của ý niệm tuyệt đối luôn vận động và phát triển.
Hêghen cho rằng vận động biện chứng của khái niệm – từ khái niệm thuần tuý hình thức ban đầu – đến phán đoán, rồi đến suy lý, sau cùng đến sự chuyển hoá từ tính chủ quan của khái niệm sang tính khách quan của nó. Tính chủ quan của khái niệm gồm khái niệm thuần tuý, phán đoán và suy lý. Mỗi người suy nghĩ đều dùng đến khái niệm, phán đoán và suy lý. Lênin cho rằng đối với Hêghen thì điều chủ yếu là nêu bật lên những chuyển hoá. Không phải chỉ là (1) mối liên hệ…, mà là (2) chuyển hoá từ cái này sang cái kia, mà là (3) đồng nhất của các mặt đối lập(1).
Hạt nhân hợp lý của phần tính chủ quan của khái niệm là tính biện chứng của cái chung và cái riêng đồng thời Hêghen nói rõ sự thống nhất và chuyển hoá lẫn nhau giữa quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp.
Trên cơ sở tính chủ quan của khái niệm, Hêghen trình bày tính khách quan của khái niệm như là một trong những sự quy định của ý niệm tuyệt đối. Để phù hợp với cái đó, Hêghen đã biến phạm trù cơ giới luận, lẫn hoá học luận thành những hình thức thể hiện cái tuyệt đối. Hêghen thừa nhận mục đích luận là hình thức cao nhất của tính khách quan vì ông cho rằng sự phát triển của khái niệm là phù hợp với tính mục đích. Hạt nhân hợp lý của phần tính khách quan của khái niệm là sự dự đoán được hoạt động có mục đích của con người phải dựa vào sự thông hiểu những quy luật của giới tự nhiên.
Ý niệm tuyệt đối được Hêghen trình bày trong chương ý niệm là sự đồng nhất giữa ý niệm lý luận và ý niệm thực tiễn, đó là khái niệm lý tính, bao hàm trong nó toàn bộ đời sống chân thật. Trong toàn bộ hệ thống của Hêghen, ý niệm tuyệt đối là nguyên lý tinh thần tuyệt đối đầu tiên có trước tất cả và không sinh ra từ một cái gì khác. Nhưng trái lại, biện chứng của ý niệm tuyệt đối lại biểu lộ dự đoán của Hêghen chân lý khách quan là kết quả của nhận thức trong khái niệm bản chất về tồn tại và dự đoán của ông về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Lênin đặc biệt chú ý đến dự đoán này của Hêghen và ghi chú rằng “Sự thống nhất của ý niệm lý luận (của nhận thức) và của thực tiễn – xin chú ý – và sự thống nhất ấy chính là ở trong lý luận nhận thức”[10].
Như vậy, trong lôgic học ở phần tồn tại, Hêghen đã diễn đạt các phạm trù chất, lượng, độ và tư tưởng biện chứng về sự chuyển hóa từ lượng đến chất và ngược lại. ở phần bản chất, Hêghen đã diễn đạt các phạm trù bản chất, hiện tượng, quy luật, khả năng và hiện thực, nguyên nhân và kết quả, và trình bày học thuyết mâu thuẫn nguồn gốc của sự phát triển. ở phần khái niệm Hêghen đã diễn đạt các phạm trù cái chung và cái riêng, quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp, đã diễn đạt các nguyên lý sự hoạt động có mục đích của con người, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tổng hợp lại quan niệm phát triển với tư cách là phủ định của phủ định. Đồng thời trong khoa học logic phương pháp biện chứng của Hêghen còn được thể hiện ở chỗ ông đã đặt ra vấn đề sự thống nhất của quá trình logic với quá trình lịch sử; logic học, nhận thức luận đều là sự tổng hợp của quá trình lịch sử; ông nêu lên tính hạn chế của logic hình thức và đòi hình thành một logic có nội dung thực tế, sinh động; ông nêu lên tư tưởng thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận nhận thức.
Nhận xét về những vấn đề trên, Lênin coi Hêghen là người phác thảo về phép biện chứng – rất hay, rõ ràng, quan trọng[11]. Dựa trên những quan điểm ấy và thực tiễn, Lênin cho rằng: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”[12].
– Triết học tự nhiên. Ý niệm tuyệt đối đã phát triển đầy đủ, nó tha hóa ra cái khác nó, đó là giới tự nhiên, được thể hiện:
• Trong tính máy móc: hạt nhân hợp lý của phép biện chứng là tư tưởng về sự thống nhất giữa vật chất với vận động, dự đoán không gian, thời gian và vận động có mâu thuẫn bên trong, ở đó được thể hiện tính thống nhất giữa tính gián đoạn và tính liên tục.
• Trong tính vật lý: Hêghen đi vào tính chất lý hóa của các vật thể. Hạt nhân hợp lý của phần này là tư tưởng cho rằng sự khác biệt hóa học về chất bị phụ thuộc vào những thay đổi về lượng, về tính biện chứng của quá trình hóa học; về mối liên hệ hữu cơ giữa hóa học và vật lý, quá trình hóa học là khâu cuối cùng chuẩn bị cho đời sống hữu cơ.
• Trong tính hữu cơ: Hêghen coi sự tiến hóa của các loài thực vật và động vật là sản phẩm của ý niệm tuyệt đối.
– Trong triết học tinh thần. ý thức của con người là lĩnh vực mà ý niệm tuyệt đối trở về với bản thân mình, phát triển từ thấp đến cao và đến triết học Hêghen là hoàn chỉnh, trở thành tri thức tuyệt đối, được thể hiện:
• Trong tinh thần chủ quan: hạt nhân hợp lý ở phần này là Hêghen đã tiếp cận quan niệm coi ý thức của con người là sản phẩm của lịch sử. Quá trình phát triển ý thức của mỗi con người là sự khái quát lại, sự đi tắt, toàn bộ những gì mà lịch sử nhân loại đã trải qua.
• Trong tinh thần khách quan: hạt nhân hợp lý là tư tưởng của Hêghen về đạo đức. Ông cho rằng nhiệm vụ của đạo đức là tìm con đường cho sự hòa hợp giữa những hành vi của các chủ thể khác nhau một sự hòa hợp không phải kết quả của những điều cấm mà xuất phát từ trạng thái tư tưởng bên trong của các chủ thể ấy.
• Trong tinh thần tuyệt đối: hạt nhân hợp lý là tư tưởng về lịch sử phát triển của nhận thức. Hêghen đã nhìn thấy sự vận động của những khái niệm, sự thay thế giữa các học thuyết triết học, sự phát triển của chân lý triết học.
Công lao của Hêghen trong triết học tinh thần là ở chỗ coi sự phát triển của lịch sử là hợp quy luật; sự phát triển của lịch sử không tuần hoàn mà đi lên, mỗi thời đại lịch sử đều có đặc điểm riêng, quá trình phát triển của lịch sử là có kế thừa.
Quan điểm về xã hội: Hêghen đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa Sôvanh, đề cao dân tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác, coi nước Đức là hiện thân của tinh thần vũ trụ mới. Chế độ nhà nước Phổ đương thời được Hêghen xem nó như đỉnh cao của sự phát triển nhà nước và pháp luật.
Tóm lại: Hêghen là nhà triết học duy tâm khách quan đồng thời là nhà biện chứng. Là nhà triết học duy tâm khách quan, Hêghen cho rằng ý niệm tuyệt đối là cái có trước vật chất, tồn tại vĩnh viễn không phụ thuộc vào con người, tạo ra thực tại khách quan. Giới tự nhiên chỉ là sự tồn tại khác của ý niệm tuyệt đối. Tính đa dạng của thực tiễn được Hêghen coi như kết quả tác động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Là nhà biện chứng, ông có công nêu ra các phạm trù và quy luật cơ bản của phép biện chứng. Nhưng phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, mặc dù vậy, ông vẫn là người đầu tiên trình bày toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần dưới dạng một quá trình vận động, biến đổi, phát triển và cố gắng vạch ra mối liên hệ bên trong của sự vận động và phát triển ấy.
Các Mác và Ph.Ăngghen đã phê phán một cách triệt để các hạn chế trong triết học Hêghen; đồng thời hai ông đã đánh giá cao và tiếp thu hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng của Hêghen để xây dựng và phát triển học thuyết về phép biện chứng duy vật của mình.
c) Lút vich Phoiơbắc (1804 – 1872)
Là một trong những nhà duy vật, vô thần lớn nhất của triết học thời kỳ trước C. Mác.
– Quan điểm về tự nhiên: Phoiơbắc là nhà duy vật triệt để. Ông chứng minh rằng thế giới là vật chất; giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ thứ triết học nào. Do đó, cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay trong lòng giới tự nhiên. Chống lại hệ thống duy tâm của triết học Hêghen – hệ thống coi giới tự nhiên là tồn tại khác của tinh thần, Phoiơbắc chỉ ra rằng triết học mới này phải có tính chất nhân bản, phải kết hợp với khoa học tự nhiên.
Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc lấy con người làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu của triết học vì con người không phải là cái gì siêu phàm, mà là một bộ phận khăng khít với giới tự nhiên. Con người có nguồn gốc từ tự nhiên, là một bộ phận của giới tự nhiên. Nguyên lý nhân bản của Phoiơbắc xoá bỏ sự tách rời giữa tinh thần và thể xác do triết học duy tâm và nhị nguyên tạo ra. Mặt nhân bản trong triết học Phoiơbắc còn thể hiện ở chỗ ông đấu tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo thiên chúa, đặc biệt là quan niệm về Thượng đế. Trái với các quan niệm truyền thống của tôn giáo và thần học cho rằng Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định chính con người sáng tạo ra Thượng đế. Ông lập luận rằng bản chất tự nhiên của con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện, nghĩa là hướng tới cái đẹp nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái đó con người không đạt được nên ta gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng Thượng đế. Từ đó Phoiơbắc phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị Thượng đế siêu nhiên đứng ngoài sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống con người.
Tuy nhiên, triết học nhân bản của Phoiơbắc cũng bộc lộ những hạn chế. Khi ông đòi hỏi triết học mới, triết học nhân bản phải gắn liền với tự nhiên thì đồng thời đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng thuộc về con người và xã hội. Con người trong quan niệm của Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi xã hội, mang những thuộc tính sinh học bẩm sinh. Triết học nhân bản của Phoiơbắc chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm. Ông nói rằng bản tính của con người là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình yêu. Do vậy, thay cho thứ tôn giáo tôn sùng một vị Thượng đế siêu nhiên cần xây dựng một thứ tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người. Ông cho rằng cần phải biến tình yêu thương giữa con người thành mối quan hệ chi phối mọi quan hệ xã hội khác, thành lý tưởng xã hội. Trong điều kiện của xã hội tư sản Đức thời đó, với sự phân chia đối lập giai cấp thì chủ nghĩa nhân đạo của Phoiơbắc về tình yêu thương giữa con người trở thành chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, duy tâm.
– Quan điểm về lý luận nhận thức. Trong khi phê phán triết học Cantơ về nhận thức luận, Phoiơbắc đã trình bày những nguyên lý căn bản của nhận thức duy vật và đem những nguyên lý ấy đối lập với triết học duy tâm. Phoiơbắc chứng minh rằng thế giới vật chất không chỉ tồn tại một cách khách quan mà trên nguyên tắc con người có thể nhận thức được thế giới hiện thực, rằng khoa học và triết học thừa nhận có chân lý khách quan.
+ Trong khi phê phán chủ nghĩa duy tâm và bất khả tri, Phoiơbắc bênh vực chủ nghĩa duy giác luận và chủ nghĩa kinh nghiệm. Ông chứng minh rằng đối tượng nhận thức của con người là thế giới vật chất tồn tại khách quan ở bên ngoài và không phụ thuộc vào ý thức con người; rằng nhận thức đi từ đối tượng đến cảm giác, rồi từ cảm giác đến tư duy rằng biểu tượng và quan niệm chỉ là sự phản ánh của những sự vật vào ý thức của con người.
+ Phoiơbắc còn phê phán chủ nghĩa duy vật tầm thường muốn biến ý thức thành những quá trình vật chất lý hóa học. Phoiơbắc cho rằng trong thực tế, cái gì tồn tại cho tôi, có nghĩa là cái chủ quan thì cái ấy chỉ là một biểu tượng thuần túy tinh thần, không phải vật chất, không cảm giác được; còn cái gì tồn tại tự nó, nghĩa là cái gì khách quan thì cái ấy là một biểu tượng vật chất có thể cảm giác được.
+ Phoiơbắc thấy được mối quan hệ giữa trực quan cảm tính và nhận thức lý tính. Giai đoạn khởi đầu của nhận thức là cảm tính. Cảm giác là thể hiện mối quan hệ giữa con người với thế giới: “Cảm giác của tôi thuộc về chủ quan, nhưng có cơ sở của nó là khách quan”. Ông đấu tranh chống các quan điểm tách rời trừu tượng khỏi cảm giác hoặc thổi phồng vai trò của tư duy trừu tượng. Ông có một nhận xét rằng nhận thức cảm tính là bị hạn chế vì nó chỉ có quan hệ với những liên tưởng riêng biệt. Vai trò của lý tính là ở chỗ nối liền lại với nhau những cái mà giác quan nhận được một cách phân tán, rời rạc.
– Quan điểm về xã hội và tôn giáo. Phoiơbắc là nhà triết học duy vật khi bàn đến vấn đề giới tự nhiên, nhưng trong lĩnh vực xã hội, ông là nhà duy tâm. Ông không thấy được sự phát triển xã hội là do những điều kiện bên trong của nó mà lại lý giải rằng sự thay thế lẫn nhau của các hình thức tôn giáo. Đó là tôn giáo không có Thượng đế, tôn giáo lấy con người làm trọng tâm. Ông không thấy được nguyên nhân kinh tế của những mâu thuẫn giai cấp trong xã hội nên ông đã rơi vào ảo tưởng , cho rằng con người chỉ cần yêu thương nhau là giải quyết được mọi mâu thuẫn trong xã hội.
Phoiơbắc phê phán mạnh tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm, ông coi chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo là những người bạn đồng hành. Ông cho rằng phải thủ tiêu mọi thứ tôn giáo đang tồn tại. Ông kết luận không phải Thượng đế sáng tạo ra con người mà con người sáng tạo ra Thượng đế.
Công lao vĩ đại của Phoiơbắc là ở chỗ trong cuộc đấu tranh chống duy tâm và tôn giáo ông đã khôi phục lại địa vị xứng đáng của triết học duy vật; đã giáng một đòn nặng vào triết học duy tâm của Hêghen và của chủ nghĩa duy tâm nói chung. Tuy nhiên trong khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của triết học Hêghen, Phoiơbắc đã vứt bỏ luôn phép biện chứng của Hêghen và Phoiơbắc rơi vào lập trường duy tâm trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Mặc dù vậy, triết học duy vật của Phoiơbắc là một trong những nguồn gốc lý luận của triết học Mác.
3. Một số kết luận về triết học cổ điển Đức
a) Triết học cổ điển Đức – những học thuyết chủ yếu của Cantơ, Hêghen, Phoiơbắc là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp tư sản Đức cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX. Những quan điểm của họ đã phục vụ cho lợi ích phát triển tư bản chủ nghĩa ở Đức. Họ dựa vào kinh nghiệm lịch sử của sự phát triển xã hội trong các nước tiên tiến ở Châu Âu, đặc biệt là kinh nghiệm của Pháp. Triết học cổ điển Đức đã phản ánh vào nội dung của nó ảnh hưởng giải phóng của cuộc cách mạng tư sản Pháp. Song, sự phản ánh ấy trên lập trường của giai cấp tư sản Đức phân tán về mặt dân tộc, yếu ớt về kinh tế và chính trị, đang tìm con đường thỏa hiệp với các lực lượng phong kiến để giải quyết nhiệm vụ cải cách quốc gia theo lối tư sản. Điều đó, trong chừng mực nhất định đã tạo điều kiện cho tính chất bảo thủ của các học thuyết duy tâm của Cantơ, của Hêghen hướng vào chống các học thuyết duy vật, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII. Đồng thời nó cũng tạo điều kiện tạo nên những tư tưởng phản động trong các quan điểm chính trị – xã hội của họ, vì những quan điểm đó chịu ảnh hưởng lớn của hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến quý tộc.
b) Thực trạng lạc hậu của nước Đức đầu thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, sự phát triển của các nước Tây Âu, sự phát triển của khoa học đã đòi hỏi giai cấp tư sản Đức phải có cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến trình lịch sử của nhân loại. Kế thừa tư tưởng vì con người của Pitago, Xôcrát thời cổ đại, khuynh hướng đề cao con người thời kỳ Phục hưng, triết học cổ điển Đức đặc biệt đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là chủ thể của mọi hoạt động, là nền tảng và là điểm xuất phát của triết học. Cantơ coi con người là chủ thể, là kết quả của quá trình hoạt động của mình, coi hoạt động thực tiễn cao hơn lý luận; coi lịch sử là phương thức tồn tại của con người. Hêghen đã phát triển sâu hơn tư tưởng của Cantơ, coi con người là một sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất định, vì vậy mang bản chất xã hội.
Trước những thành tựu mới về kinh tế – xã hội, văn hóa mà nhân loại đã đạt được thời kỳ đầu của cách mạng tư sản, các nhà triết học cổ điển Đức đề cao sức mạnh trí tuệ và sự sáng tạo của con người tới mức cực đoan. Họ thần thánh hóa con người, coi con người là chúa tể của tự nhiên và coi tự nhiên cũng chỉ là kết quả hoạt động của con người. Quan điểm đó ngày càng được củng cố bởi sự thống trị mạnh mẽ của tôn giáo trong xã hội Đức thời đó.
Tuy nhiên, so với tư tưởng triết học trước đó, thành tựu cơ bản của triết học cổ điển Đức về con người là: khẳng định tư duy, ý thức chỉ phát triển trong chừng mực con người nhận thức và biến đổi hiện thực; con người là chủ thể, là kết quả của toàn bộ nền văn minh do chính mình tạo ra; nghiên cứu tiến trình lịch sử nhân loại, mối quan hệ con người với tự nhiên như một quá trình phát triển biện chứng.
c) Triết học cổ điển Đức đã tổng kết sự phát triển tư tưởng triết học, xã hội học, khoa học trên lập trường duy tâm. Điều đó, một mặt nó phản ánh những biến cố lịch sử xẩy ra trong thời đại của Cantơ, Hêghen, Phoiơbắc. Biến cố lịch sử đóng vai trò chủ yếu trong sự phản ánh ấy là cách mạng tư sản Pháp. Mặt khác, sự tổng kết độc đáo những thành tựu của khoa học đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển một cách có hệ thống biện chứng với tư cách là phương pháp, là nhận thức và logíc học. Đó là những thành quả quan trọng của triết học cổ điển Đức. Song, khi thừa nhận tính chất phổ biến của nguyên lý phát triển, các nhà biện chứng duy tâm Đức chủ yếu chỉ xét đến sự phát triển của nhận thức, không nhìn thấy nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan, tồn tại bên ngoài độc lập với ý thức. Khi phê phán tính chất tĩnh quan của chủ nghĩa duy vật siêu hình, coi ý thức chỉ là một quá trình thụ động của sự tác động của những sự vật, hiện tượng đến con người mà không quan tâm đến ý nghĩa nhận thức của sự tác động của con người tới sự vật, hiện tượng. Các nhà biện chứng duy tâm Đức chỉ nghiên cứu khía cạnh hoạt động, khía cạnh chủ quan của nhận thức, nghiên cứu ý nghĩa của những hình thức logíc, những phạm trù đã được tạo ra trong quá trình nhận thức. Tuy nhiên, việc đặt ra các vấn đề ấy và các vấn đề khác của phép biện chứng với tư cách là nhận thức luận, logíc học là công lao của các nhà tư tưởng duy tâm Đức. Cantơ là người đặt vấn đề về nguồn gốc của khái niệm, vị trí khái niệm trong tư duy khoa học, những vấn đề căn bản của nhận thức luận. Hêghen đã đóng vai trò xuất sắc trong sự phát triển phép biện chứng. Phoiơbắc đã phê phán chủ nghĩa duy tâm, thần học, làm sống lại chủ nghĩa duy vật, đã phát triển truyền thống tiến bộ của chủ nghĩa duy vật, vô thần thế kỷ XVII – XVIII.
d) Trên cơ sở thành quả của phép biện chứng, nhiều nhà triết học cổ điển Đức có ý đồ hệ thống hóa toàn bộ những tri thức và thành tựu mà nhân loại đã đạt được từ trước. Cantơ và Hêghen đã muốn xây dựng hệ thống triết học vạn năng để làm nền tảng cho toàn bộ thế giới quan con người; khôi phục lại quan niệm “triết học là khoa học của các khoa học”. Họ thể hiện sự uyên bác về triết học và các lĩnh vực khoa học khác. Dĩ nhiên quan niệm đó không phù hợp, nhưng về góc độ lịch sử nó đáp ứng đòi hỏi khách quan của khoa học thời bấy giờ là cần hệ thống hóa tri thức loài người mà các nhà khai sáng Pháp đã khởi xướng.
[1] V. I. Lênin. Sđd. T 18, tr 238 – 239
[2] V. I. Lênin. Sđd T 18 tr 237, 368
[3] V. I. Lênin. Sđd T 18 tr 117
[4] I. Cantơ. Sđd. T3, tr 398.
[5] I Cantơ. Sđd T 4, tr 414.
[6] I Cantơ – Sđd. T 4, tr 398.
[7] I Cantơ – Sđd. T 3, tr 11.
[8] V. I. Lênin. Sđd, T29 tr 169
[9] V. I. Lênin. Sđd, T 29 tr 172
V.I.Lênin. Sđđ T29 tr 186
[10] V.I.Lênin. Sđđ T29 tr 237
[11] V.I. Lênin. Sđđ T29 tr 241
[12] V.I. Lênin. Sđđ T29 tr 240