Nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
1. Quan điểm về vai trò của đạo đức cách mạng
a. Đạo đức là gốc, là sức mạnh của người cách mạng
– Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người cũng như gốc của cây, ngọn nguồn của sông.
Trong tác phẩm Sửa đối lối làm việc (1947), Hồ Chí Minh viết:
“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.”
– Người cách mạng phải lấy đạo đức làm gốc vì, nếu không có đạo đức sẽ không hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng, sự nghiệp cách mạng vô cùng khó khăn, gian khổ nó đòi hỏi phải sự hy sinh rất lớn. Đạo đức cách mạng tạo ra sức mạnh về ý chí, nghị lực cho người cách mạng từ đó mới hoàn thành được những nhiệm vụ cách mạng đặt
Trong tác phẩm Đạo đức cách mạng (1958), Hồ Chí Minh viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
VD: Trong kháng chiến, nhiều chiến sĩ cách mạng bị địch giam cầm, tra tấn hết sức dã man nhưng nhất quyết không đầu hàng, đó là do họ có sức mạnh của đạo đức cách mạng
– Người cách mạng phải lấy đạo đức làm gốc, nếu không có đạo đức sẽ không được quần chúng nhân dân tin tưởng từ đó không lãnh đạo được nhân dân. Người cách mạng khi có đạo đức cách mạng sẽ tạo được niềm tin cho quần chúng, được quần chúng quý mến, kính trọng.
Hồ Chí Minh nói: “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”. “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức”.
– Đạo đức cách mạng tạo nên bản lĩnh, khí chất cho người cách mạng. Người cách mạng có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…, khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn.
b. Đạo đức là nền tảng tinh thần của xã hội
– Đạo đức trở thành nhân tố quyết định của sự thành bại của mọi công việc, phẩm chất mỗi con người. Đạo đức có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành xã hội mới và xây dựng thuần phong mỹ tục.
Hồ Chí Minh quan niệm, “Việc nước lấy Đoàn thể làm cốt cán. Việc Đoàn thể lấy cán bộ làm cốt cán. Cán bộ lấy đạo đức làm cốt cán”
– Đạo đức, với những chuẩn giá trị có tác dụng chi phối đời sống tinh thần của xã hội. Là bộ phận quan trọng của nền tảng tinh thần xã hội. Đạo đức góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội, qua đó thúc đẩy sự phát triển của kinh tế – xã hội.
Trong xã hội, sự suy thoái đạo đức trong mỗi con người và xã hội là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội. Hồ Chí Minh nhắc lại lời Mạnh Tử: “Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy”. Chính vì vậy, Người thường nhắc lại tinh thần của V.I.Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.
c. Đức và tài có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
– Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế.
– Theo Hồ Chí Minh, đức và tài phải là những phẩm chất thống nhất của con người. Nếu đạo đức là tiêu chuẩn cho mục đích hành động thì tài là phương tiện thực hiện mục đích đó. Vì vậy, con người cần có cả đức và tài, nếu thiếu tài thì làm việc gì cũng khó, nhưng thiếu đạo đức thì vô dụng, thậm chí có hại.
– Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất và năng lực phải thống nhất làm một. Trong đó, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng. Người đòi hỏi tài năng phải gắn chặt và đặt vững trên nền tảng đạo đức.
Người thường khuyên: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”.
– Quan điểm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, hồng và chuyên phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể có mặt này lại thiếu mặt
Hồ Chí Minh nói: “Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho nước. Có đức không có tài…không giúp ích gì được ai”.
2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
a. Trung với nước, hiếu với dân
– Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất và chi phối các phẩm chất khác.
– Trung và hiếu là những khái niệm đạo đức cũ đã có từ lâu trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, phản ánh mối quan hệ lớn nhất và cũng là phẩm chất bao trùm nhất: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Phẩm chất này được Hồ Chí Minh sử dụng với những nội dung mới, rộng lớn: “Trung với nước, hiếu với dân”.
+ Trung với nước, là phải yêu nước, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng, phải làm cho “dân giàu, nước mạnh”.
+ Hiếu với dân, là phải thương dân, tin dân, thân dân, học hỏi dân, lấy trí tuệ ở dân, kính trọng dân, lấy dân làm gốc, “hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng”.
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, đó là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người. “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ trong đạo đức truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
– Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”. Lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng. Phải thấy rõ, “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
– Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. Tiết kiệm sức lao động; thì giờ; tiền bạc của của nhân dân, của nước, của bản thân mình; không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù.
Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Cần với kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người.
– Liêm là trong sạch, liêm khiết, không tham lam; luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công, của dân. Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình.
– Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Chính được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ:
+ Đối với mình, chớ tự kiêu, tự đại
+ Đối với người, chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn,… Phải thực hành chữ Bác – Ái
+ Đối với việc: Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà; việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh.
– Chí công vô tư là vì lợi ích chung, không tư lợi; là công bằng, công tâm không thiên tư, thiên vị. Luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của dân tộc lên trên hết, trước hết, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Chí công vô tư về thực chất là sự tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh quan niệm: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”. Cần, kiệm, liêm, chính còn là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước. Để trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt, phải hội đủ các yếu tố cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cơ bản của con người, giống như bốn mùa của trời, bốn phương của đất; “Thiếu một đức, thì không thành người”.
c. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa
Hồ Chí Minh đã xác định tình thương yêu con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu thương con người là tình cảm nhân ái sâu sắc, rộng lớn, trước hết dành cho những người nghèo khổ, những người bị mất quyền, những người bị áp bức, bị bóc lột không phân biệt màu da, dân tộc. Tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh vượt ra ngoài phạm vi dân tộc, mang tính quốc tế, tầm nhân loại.
Tình thương người, yêu đồng loại, yêu đồng bào, yêu đất nước mình là tư tưởng lớn, là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh, đã được thể hiện ở sự ham muốn tột bậc của Người là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Tình thương yêu con người theo Hồ Chí Minh phải được xây dựng trên lập trường của giai cấp công nhân, thể hiện trong các mối quan hệ hằng ngày với bạn bè, đồng chí, anh em, phải được thể hiện ở hành động cụ thể thiết thực. Nó đòi hỏi mỗi người phải chặt chẽ và nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng và giàu lòng vị tha đối với người khác.
Phải có thái độ tôn trọng những quyền của con người, tạo điều kiện cho con người phát huy tài năng; nâng con người lên, kể cả những người nhất thời lầm lạc, chứ không phải là thái độ “dĩ hòa vi quý”, không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng
Tinh thần quốc tế trong sáng theo Hồ Chí Minh, trước hết là thực hiện đoàn kết với nhân dân lao động các nước; là tình đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới, là đoàn kết với các dân tộc vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội
Tinh thần quốc tế trong sáng là sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với các dân tộc bị áp bức, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu. Vì mục tiêu chung là đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công.
Tinh thần quốc tế trong sáng cần chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền.
Hồ Chí Minh nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, nhưng luôn luôn kêu gọi phải tăng cường đoàn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời phải ra sức ủng hộ và giúp đỡ đối với các cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh theo tinh thần quốc tế trong sáng:
“Quan sơn muôn dặm một nhà, Bốn phương vô sản đều là anh em!”
3. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
a. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức
– Nói đi đôi với làm là nét đẹp trong đạo đức truyền thống của dân tộc đượcHồ Chí Minh nâng lên một tầm cao mới. Người coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng nền đạo đức mới.
– Nói đi đôi với làm thể hiện bản chất và nhân cách của con người. Nói đi đôi với làm thì mới đem lại hiệu quả thiết thực cho chính bản thân mình và mới có tác dụng đối với người khác. Nếu nói nhiều làm ít, nói mà không làm, hơn nữa nói một đằng, làm một nẻo thì chỉ đem lại những hậu quả phản tác dụng.
– Nói đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả, nói một đằng làm một nẻo, nói nhiều làm ít, thậm chí nói mà không làm. Ngay sau thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện của thói đạo đức giả ở một số cán bộ “vác mặt làm quan cách mạng”.“Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ.
– Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông. Để đạo đức cách mạng thấm sâu, bám chắc vào đời sống xã hội và trở thành nền tảng tinh thần của nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên cần phải: “Trước hết, mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và văn hóa”.
Hồ Chí Minh đã viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
– Hồ Chí Minh cho rằng, hơn bất cứ một lĩnh vực nòa mà vấn đề nêu gương lại được đặt ra và rất có ý nghĩa giáo dục như trong lĩnh vực đạo đức. Sự làm gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau; trong gia đình thì cha mẹ làm gương cho con, anh chị làm gương cho em, ông bà làm gương cho con cháu, trong nhà trường thì thầy, cô làm gương cho học sinh, trong các tổ chức đoàn thể thì cấp trên làm gương cho cấp dưới….
b. Xây đi đôi với chống
– Xây tức là xây dựng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới.
– Chống là chống các biểu hiện, các hành vi vô đạo đức, suy thoái đạo đức.
– Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây, lấy xây làm chính. Vì trong đời sống hằng ngày, những hiện tượng tốt – xấu, đúng – sai, cái đạo đức và cái vô đạo đức thường đan xen nhau, đối chọi nhau thông qua hành vi của những con người khác nhau, thậm chí trong mỗi con người.
Xây phải đi đôi với chống, nhằm loại bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo đức trong đời sống hàng ngày. Khơi dậy được ý thức đạo đức trong mỗi người.
Hồ Chí Minh quan niệm, “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”
– Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục nhận thức, từ trong gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất đạo đức chung phải được cụ thể hóa, sát hợp với từng đối tượng.
c. Tu dưỡng đạo đức suốt đời
– Theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức như một cuộc cách mạng trường kỳ, gian khổ. Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người.
Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chính tâm tu thân tức là cải tạo. Cải tạo cũng phải trường kỳ gian khổ, vì đó là một cuộc cách mạng trong bản thân của mỗi người”
– Đạo đức cách mạng không phải tự nhiên hình thành, nó phải trải qua quá trình đấu tranh, rèn luyện, bền bỉ hàng ngày mới có được.
Người tổng kết sâu sắc: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
– Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện kiên trì trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mình.
Về xây dựng đạo đức cách mạng Việt Nam
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của bậc “đại nhân, đại trí, đại dũng”, của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng, một người cộng sản ưu tú; đồng thời, cũng là đạo đức của một người chân chính, bình thường, gần gũi ai cũng có thể học tập và làm theo để trở thành người cách mạng, người công dân tốt hơn. Học tập Chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta học những phẩm chất sau:
- Học tập đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh là phải trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng.
- Học tập đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh là phải tu dưỡng, rèn luyện theo tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đức khiêm tốn, trung thực.
- Học tập đạo đức Hồ Chí Minh là phải có đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người.
- Học tập đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh còn là học tập và làm theo tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.