1. Điều kiện ra đời và nét đặc thù của triết học Ấn Độ Cổ, Trung đại
Về địa lý.
Ấn Độ Cổ đại là một bán đảo rộng lớn ở phía Nam châu Á, có điều kiện tự nhiên rất phức tạp: địa hình có nhiều núi non trùng điệp, có nhiều sông ngòi với những đồng bằng trù phú; Khí hậu có vùng nóng, ẩm, mưa nhiều, có vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có những sa mạc khô khan.
Về phương diện lịch sử. Xã hội Ấn Độ cổ đại là một xã hội ra đời từ rất sớm: Khoảng thế kỷ XXV trCN trong lưu vực sông Ấn đã nảy nở một nền văn minh cao, được gọi là nền văn minh Sông Ấn hay Harappa.
Khoảng thế kỷ XV trCN, các bộ lạc du mục Arya đã từ phía Bắc xâm nhập vào đất Ấn Độ. Họ dần định cư, rồi đồng hóa với dân bản địa Dravida, tạo thành cơ sở cho sự xuất hiện quốc gia, nhà nước lần thứ hai. Từ thế kỷ VII trCN đến thế kỷ XVI CN đất nước Ấn Độ phải trải qua hàng loạt biến cố lớn, đó là những cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các vương triều trong nước và sự xâm lăng của các quốc gia bên ngoài. Vào thế kỷ XVIII, Ấn Độ bị đế quốc Anh đô hộ, từ đó Ấn Độ bước sang thời kỳ thống nhất về chính trị thúc đẩy sự kết hợp giữa văn hóa cổ truyền với văn hóa phương Tây.
Về kinh tế – xã hội.
Nét nổi bật của Ấn Độ cổ đại là sự tồn tại sớm và kéo dài kết cấu kinh tế xã hội theo mô hình “công xã nông thôn”. Trong kết cấu này, ruộng đất thuộc về nhà nước, dân công xã canh tác ruộng đất công và nộp tô cho nhà nước, nô lệ không có vai trò trong sản xuất. Trên cơ sở mô hình ấy, trong xã hội Ấn Độ cổ trung đại đã tồn tại rất dai dẳng sự phân chia đẳng cấp, sự phân biệt chủng tộc, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo làm cho kết cấu xã hội rất phức tạp.
Về văn hóa. Ấn Độ Cổ đại được hình thành trên cơ sở điều kiện tự nhiên và hiện thực xã hội. Người Ấn Độ đã biết quả đất tròn quay xung quanh một trục, đã biết sáng tạo ra lịch pháp, đã có hệ thống số đếm thập phân, đã biết đến số không, đã có những thành tựu trong đại số, hình học, khai căn, các phép tính lượng giác, đường tròn, số …, y học và hóa học phát triển. Các tập sử thi vĩ đại như Mahabharata và Ramayana cũng hình thành trong thời kỳ này. Đây cũng là thời kỳ phát triển tư duy trừu tượng, thời kỳ ra đời của các hệ thống tôn giáo, triết học.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội và văn hoá luôn tác động mạnh đến con người Ấn độ, và để lại dấu ấn đậm nét, tạo nên cơ sở ra đời và quy định nội dung tính chất cuả nền triết học Ấn Độ Cổ, Trung đại. Nét đặc thù của tư tưởng triết học này chịu ảnh hưởng lớn của tư tưởng tôn giáo có tính chất “hướng nội”. Xu hướng lý giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn giáo nhằm đạt tới sự “giải thoát” là xu hướng trội của nhiều học thuyết triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ , trung đại.
2. Tư tưởng triết học Ấn Độ Cổ, Trung đại
Người ta đã chia lịch sử hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ Cổ, Trung đại thành ba thời kỳ lớn: Thời kỳ Véda (vào khoảng 1500 năm đến 1000 năm trCN); Thời kỳ cổ điển, hay còn gọi là thời kỳ Bàlamôn – Phật giáo (vào khoảng 700 năm trCN đến 600 năm CN); Thời kỳ sau cổ điển hay còn gọi là thời kỳ xâm nhập của Hồi giáo (vào khoảng 700 năm đến 1800 năm CN)
a) Tư tưởng triết học thời kỳ Véda
Véda, trong tiếng cổ Ấn Độ có nghĩa là tri thức, thường hiểu là tri thức tôn giáo. Trong nghĩa cụ thể, Véda là một khối lượng tác phẩm văn học đồ sộ được sáng tác trong khoảng thế kỷ XV trCN và được sưu tập, chép lại bằng tiếng Phạn cổ vào khoảng thế kỷ X trCN gọi là thánh kinh Véda. Bộ phận sớm nhất của văn học Véda là bốn tập Véda: Rigveda, Samaveda, Atharvaveda, Yajurveda. Bộ phận muộn của văn học Véda là Brahmana, Aranyaka và Upanisad. Nhìn chung, trong các tập này, chúng ta chỉ thấy các ước vọng của con người, nó phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và đa thần giáo, chưa có những khái quát triết học. Song, ta có thể nhận ra những bước phát triển mới của tư duy trừu tượng. Khuynh hướng rõ rệt là người Ấn Độ đi tìm những điểm giống nhau giữa vô vàn hiện tượng và sự vật khác nhau. Đi xa hơn, người ta thừa nhận một nguyên lý vũ trụ với sức mạnh vô hạn biểu hiện ra trong thiên nhiên, trong tinh thần và trong nghi lễ. Ở đây đã phôi thai hai quan niệm đối lập nhau mà ta có thể nhận thấy trong tư tưởng triết học về sau là quan niệm coi thế giới bị chi phối bởi một nguyên lý phi nhân cách và quan niệm coi một vị thượng đế nhân cách hóa điều khiển mọi quá trình vũ trụ.
Upanisad là sách triết lý – tôn giáo cuối giai đoạn Véda. Upanisad có nghĩa là tri thức bí mật, thể hiện khát vọng hệ thống hóa các tín ngưỡng cổ.
Vấn đề trước hết mà Upanisad quan tâm là mối quan hệ giữa “Tinh thần vũ trụ tối cao” (Brahman) và “Linh hồn” con người (Atman). Upanisad giải đáp một cách duy tâm rằng Brhaman là thực thể duy nhất, có trước, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và nhập về với nó sau khi chết. Tất cả mọi vật đều có Atman và Atman là một bộ phận của Brahman. Thứ hai, Upanisad cũng đã trình bày về thuyết luân hồi và cho rằng con người sau khi chết, sẽ lại tái sinh dưới một hình thức khác, người hoặc động vật. Các dạng tái sinh kiếp sau được quy định bởi các nghiệp đã có ở kiếp này. Để giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng vây hãm của luân hồi nghiệp báo, thoát khỏi sự chi phối của đời sống nhục dục thì phải có tri thức thần bí đặc biệt, muốn đạt được thì phải thiền. Thiền là bằng nhận thức trực giác, thực nghiệm tâm linh, con người mới nhận ra chân bản của mình khi đó linh hồn (Atman) mới đồng nhất được với tinh thần vũ trụ tối cao [Brahman]. Các sách Upanisad đã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển hệ tư tưởng Ấn Độ, là cội nguồn tư tưởng cho nhiều khuynh hướng triết học và tôn giáo khác nhau ở Ấn Độ cổ đại.
b) Tư tưởng triết học thời cổ điển
Vào thời kỳ cổ điển (hay là Bàlamôn – Phật giáo), tuy nền kinh tế và xã hội nô lệ đã phát triển cao hơn trước nhưng vẫn bị kìm hãm bởi tính chất kiên cố của tổ chức công xã nông thôn, bởi sự phân chia đẳng cấp ngặt nghèo và sự thống trị của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Về đời sống tinh thần, thế giới quan duy tâm, tôn giáo của kinh thánh Véda, Upanisad và đạo Bàlamôn được suy tôn là hệ tư tưởng chính thống ngự trị trong đời sống tinh thần của con người. Các trường phái triết học thời kỳ này đa dạng, phản ánh lợi ích của các tầng lớp xã hội khác nhau được trình bày thành hệ thống chặt chẽ, được chia làm hai phái: phái chính thống thừa nhận uy thế tối cao của kinh Véda, đạo Bàlamôn và phái không chính thống bác bỏ uy thế kinh Véda và đạo Bàlamôn. Phái chính thống bao gồm 6 trường phái: Sàmkhya, Mimàna, Vedànta, Yoga, Nỳaya, Vaisesia. Phái không chính thống, hay phái tà giáo có ba trường phái: Jaina, Lokàyata, Buddha (Phật giáo).
Trường phái Sàmkhya.
Tư tưởng của Sàmkhya có nguồn gốc rất cổ và ảnh hưởng của nó rất lớn. Đến nay chỉ có hai tập sách trình bày quan điểm Sàmkhya là Sàmkhya-sùtra được coi là của Kapila và Sàmkhyakarita được coi là của Isvarakrisna.
Triết học Sàmkhya sơ kỳ là duy vật, phủ định sự tồn tại của Brahman và thần, họ đưa ra học thuyết tồn tại của kết quả trong nguyên nhân trước khi nó xuất hiện và học thuyết về sự chuyển hoá thực tế của nguyên nhân trong kết quả. Họ cho rằng nếu thế giới là vật chất thì nguyên nhân của nó cũng phải là vật chất. Vật chất đầu tiên (Prakriti) ở dạng tinh tế, tiềm ẩn, không thể cảm giác trực tiếp. Thế giới vật chất là thể thống nhất của ba yếu tố: Sattva (nhẹ, sáng, tươi vui), Rajas (động, kích thích), Tamas (nặng, khó khăn). Khi ba yếu tố này ở trạng thái cân bằng thì Prakriti ở trạng thái không thể trực quan được. Khi cân bằng bị phá vỡ thì đấy là điểm xuất phát của sự tiến hoá thế giới. Triết học Sàmkhya hậu kỳ có khuynh hướng nhị nguyên khi thừa nhận sự tồn tại song song hai yếu tố đầu tiên là Prakriti và Purusa (vật chất và tinh thần). Yếu tố Purusa mang tính phổ quát vĩnh hằng và bất biến, nó truyền sinh khí, năng lượng biến hoá vào yếu tố vật chất.
Trường phái Mimànsà.
Tư tưởng của Mimànsà có kinh điển đầu tiên là Mimànsà – sùtra được coi là của Jaimini và sau đó là bản chú giải các tác phẩm trên còn lại đến nay là Sabara – Bhasya do Sabara viết.
Mimànsà là hệ thống triết học chính thống, không thừa nhận sự tồn tại của thần. Lập luận của họ về sự tồn tại của thần là không có chứng cứ, cảm giác không nhận ra thần, nguồn gốc của tri thức suy cho cùng là dựa trên cảm giác. Quan điểm vô thần như trên có nguồn gốc trong quan điểm của họ về kinh Véda và thần linh Véda. Họ coi kinh Véda là tập mệnh lệnh về nghi lễ. Nghi lễ có sức mạnh, có thể đưa lại hiệu quả. Còn thần trong kinh Véda là cái tên, hay là âm thanh cần thiết cho các câu thần chú nghi lễ. Mimànsà hậu kỳ thừa nhận sự tồn tại của thần.
Trường phái Vêdànta.
Tư tưởng của Vêdànta có kinh điển đầu tiên là Vêdànta-sùtra được coi là của Badarayana viết, nhằm hệ thống hoá, thống nhất các quan điểm triết học của Upanisad.
Cách luận giải có ảnh hưởng lớn nhất là quan điểm Advaita – Vedanta (tức Vêdànta nhất nguyên) hay Maya – vada (tức lý thuyết là ảo ảnh). Theo lý thuyết này, tồn tại tuyệt đối (Brahman) đồng nhất với “tôi” (Atman) là ý thức cá nhân thuần tuý. Thế giới vật chất không hiện thực, hình ảnh của nó chỉ là ảo ảnh (maya), sinh ra do vô minh (avidya). Vậy, Vêdànta nhất nguyên không thừa nhận sự tồn tại của bất cứ cái gì ngoài Brahman – tức là ý thức thuần tuý. Các phái Vêdànta sau này giải thích Vêdànta – sùtra theo quan điểm hữu thần hay duy tâm khách quan. Họ coi Brahman là linh hồn vũ trụ, vĩnh hằng, còn Atman là linh hồn cá thể, một bộ phận của linh hồn tối cao, tức là thượng đế Brahman.
Trường phái Yoga.
Yoga-sutra của Patanjali là kinh điển của trường phái Yoga.
Tư tưởng triết học cốt lõi của Yoga là sự hợp nhất tâm thể về một mối, là hệ thống tu hành mà người tu hành chấp nhận giải thoát Atman ra khỏi các giác quan và sự ràng buộc của cơ thể.
Trường phái Yoga kết hợp tư tưởng triết học của trường phái Sàmkhya nhưng lại coi Purusa là thượng đế. Thượng đế của Yoga không có ý nghĩa triết học mà chỉ có mục đích đạt tới giác ngộ để vượt qua thế giới vật chất hữu hình, hữu hạn, thường biến để đạt tới đại giác – tức đến với Brahman.
Trường phái Nyaya – Vaisêsika.
Ngay từ đầu, hai hệ thống Nyaya và Vaisêsika đã gắn liền với nhau, qua thời gian thực sự hòa làm một, nên có thể gọi chung là Nyaya – Vaisêsika. Kinh điển cơ bản của Nyaya – Vaisêsika là Nyaya-sùtra của Gautama và Vaisêsika-sutra của Kanađa. Lý thuyết nhận thức, lý thuyết nguyên tử và lý thuyết biện luận là ba nội dung chủ yếu về mặt triết học của trường phái Nyaya – Vaisêsika.
Lý thuyết nguyên tử: Những nhà triết học của trường phái Nyaya – Vaisêsika thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất, thế giới ấy là rất phong phú, đa dạng, phương pháp luận của họ là quy toàn bộ sự đa dạng của tồn tại vào bốn yếu tố vật chất: đất, nước, lửa và không khí. Những yếu tố này lại được quy vào bản nguyên duy nhất, đầu tiên là Ami (nguyên tử). Nguyên tử được coi là những hạt vật chất không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng, được phân biệt ở chất lượng, khối lượng và hình dáng, tồn tại trong môi trường đặc biệt, trong không gian, thời gian. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của nguyên tử, phái này còn thừa nhận có vô số những linh hồn tồn tại trong vũ trụ, những linh hồn ấy được gọi là Ya mà đặc tính của nó được thể hiện ra như ước vọng, ý chí, vui buồn, giận hờn… Để điều khiển sự kết hợp giữa các nguyên tử với nhau và giữa các nguyên tử với linh hồn, hoặc giải thoát các linh hồn khỏi nguyên tử hai phái này tìm đến lực lượng thứ ba mang tính chất siêu nhiên đó là thần Isvara. Lý thuyết nhận thức: họ thừa nhận sự tồn tại khách quan của đối tượng nhận thức, đề cao vai trò kinh nghiệm trong nhận thức. Nhận thức có thể tin cậy, cũng có thể không tin cậy. Vì vậy phải kiểm tra đúng sai của nhận thức một cách thực tế. Thuyết biện luận của Nyaya – Vaisêsika có đóng góp quan trọng về hình thức logic của tư duy. Đó là hình thức lôgic của tư duy theo nguyên tắc “Ngũ đoạn luận”: Luận đề – ví dụ – suy đoán – kết luận.
Trường phái Jaina.
Tên của Jaina bắt nguồn từ tên người sáng lập Mahavira có hiệu là Jina (chiến thắng). Kinh điển của Jaina là Tattvartha – Dhigama – sùtra của Umasvati.
Nội dung triết học cơ bản của Jaina là thuyết tương đối, lý luận về phán đoán và thực thể tồn tại.Trước hết Jaina đề cao thuyết tương đối. Theo thuyết này, tồn tại vừa là bất biến vừa chuyển biến. Cái vĩnh hằng là vật chất, còn cái biến đổi là các dạng vật chất, giống như đất sét thì không thay đổi, nhưng những cái bình làm bằng đất sét thì thay đổi. Lý thuyết tương đối của Jaina dẫn đến lý luận về phán đoán. Theo thuyết này, khi đưa ra một phán đoán nào đấy thì chỉ có nghĩa là với một độ chắc chắn nào đó thôi. Những người Jaina cho rằng có thể chia thực thể tồn tại ra làm hai loại sống và không sống: sống là có lý trí, linh hồn; không sống gồm không gian, thời gian, vận động, nghỉ ngơi… Các yếu tố sống và không sống liên kết với nhau. Jaina tin vào thuyết luân hồi và nghiệp. Để giải thoát khỏi luân hồi cần hoàn thiện đạo đức bằng hình thức tu khổ hạnh.
Trường phái Lokàyata.
Tên Lokàyata hay Carvaka thường được hiểu là thứ triết học phổ biến trong nhân dân, hay là triết học lấy vật chất là cơ sở.
Luận giải về nguồn gốc thế giới: Lokàyata cho rằng tất cả đều tạo ra bởi bốn yếu tố vật chất là đất, nước, lửa và không khí. Những yếu tố này có khả năng tự tồn tại, tự vận động trong không gian và cấu thành vạn vật. Tính đa dạng của vạn vật do sự kết hợp khác nhau của những yếu tố ấy.
Bản thân con người cũng là kết quả sự kết hợp của các nguyên tố đó. Không có linh hồn bất tử. Linh hồn hay ý thức chỉ là một thuộc tính của cơ thể. Ý thức do vật chất sinh ra như gạo nấu thành rượu, nhưng rượu lại có tính chất mà gạo không có là làm cho người ta say. Từ đó Lokàyata phủ nhận thuyết luân hồi và nghiệp, chế giễu sự giải thoát. Lý luận nhận thức và lôgic học: phái này có khuynh hướng duy vật theo lập trường kinh nghiệm luận. Họ cho rằng cảm giác là nguồn gốc duy nhất của nhận thức, đồng thời phủ nhận tính chất xác thực của tri thức gián tiếp. Về lôgic học Lokàyata không phủ nhận giá trị của biện luận, chứng minh và kết luận lôgic mà chỉ phủ nhận phương thức suy luận, chứng minh và mở ra kết luận sai lầm của kinh Vêda. Về đạo đức: họ phê phán lý thuyết chấm dứt đau khổ bằng sự kiềm chế ham muốn dục vọng hạnh phúc ở thiên đường. Họ cho rằng chỉ có thế giới con người đang sống mới là có thực. Vì vậy, hãy để cho mọi người sống và hưởng lạc tất cả những cái gì họ mong muốn.
Những tư tưởng trên cho thấy Lokàyata là phái duy vật triệt để nhất trong các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại, nó xa lạ với tinh thần tôn giáo truyền thống của Ấn Độ.
Trường phái Phật giáo (Bouddha).
Phật giáo ra đời vào thế kỷ VI trCN. Người sáng lập là Siddartha (khoảng thế kỷ VI trCN). Sau này ông được người đời tôn vinh là Sakyamuni (Thích ca Mâu ni), là Buddha (Phật).
Phật (gọi chung là “Tam Tạng kinh điển” là tên ghi âm Hán Việt của Buddha, có nghĩa là giác ngộ. Phật giáo là hình thức giáo đoàn được xây dựng trên một niềm tin từ đức Phật, tức từ biển lớn trí tuệ và từ bi của Siddharta. Kinh điển của phật giáo gồm Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng. Phật giáo, có chung với các tôn giáo Ấn Độ khác một số khái niệm như kiếp nghiệp, luân hồi. Phật học nguyên là một triết lý sống theo mục tiêu giải thoát.
Vũ trụ quan thuyết nhân duyên của Phật giáo cho rằng tất cả sự vật có danh có tướng(có thể nhận thức qua cảm giác hay ý niệm) gọi là Pháp (Dharma); đều bị chi phối bởi luật vô thường (luôn luôn chuyển biến): chuyển biến trong nháy mắt hay từng giai đoạn thay hẳn chất lượng rõ rệt. Vạn vật tuân theo luật nhân quả: thành, trụ, dị, diệt. Khái niệm nhân duyên giải thích sinh và diệt của sự vật: nhân là nguyên nhân, duyên là những điều kiện giúp cho nhân phát triển. Nhân duyên là những quan hệ biện chứng trong không gian và thời gian giữa các sự vật. Một sự vật ảnh hưởng dây chuyền (duyên) đến tất cả các sự vật khác. Trong một có tất cả, trong tất cả có một. Sự vật không có thực thể, chỉ hư ảo tạm thời: sinh ra vì nhân duyên hòa hợp thành (sắc) diệt đi vì nhân duyên tan rã (không). Do đó, không thể có cái “tôi” vĩnh hằng, thực chất là không có tôi, “vô ngã”. Vạn vật hư ảo gốc ở nhân duyên: chân lý ấy gọi là tính chân như, phật tính, pháp tính.
Nhân sinh quan tứ diệu đế của Phật giáo cho rằng theo thuyết vô ngã, không có sự vật riêng biệt, không có cái “tôi”. Con người sinh ra chỉ do nhân duyên kết hợp, cụ thể là ngũ uẩn (gồm năm thành tố): cái “tôi” sinh lý tức là thân (với yếu tố sắc, tức là cảm giác được), cái “tôi” tâm lý tức là tâm (với bốn yếu tố tinh thần là thụ, tưởng, hành, thức). Khi nhân duyên ngũ uẩn tan rã, thì tử, diệt. Do không nhận thức được cái “tôi” có mà không; nên con người ta khổ. Do đó, Phật đề ra thuyết Tứ diệu đế, cơ sở của Phật học:1/ Khổ đế là đời người có 8 cái khổ:sinh, lão, bệnh, tử, muốn mà không được, ưa mà phải xa lìa, ghét mà phải gần, ngũ uẩn che lấp trí tuệ. 2/ Tập đế là nguyên nhân cái khổ: tham, sân, si. Chúng sinh do không biết vô ngã, nên sinh ra khổ, dục vọng, tạo ra nhân duyên luân hồi. 3/ Diệt đế là trừ diệt cái khổ, không còn luân hồi sinh tử. 4/ Đạo đế là con đường dẫn đến giải thoát khỏi luân hồi sinh tử đến cõi Niết bàn. Phải theo tám con đường đúng là tri kiến (nhận thức), tư duy, nói năng, hành động (nghiệp), sinh sống, nỗ lực, niệm (nghĩ và nhớ) định (tập trung tư tưởng) đều phải đúng: Niết bàn là trạng thái không còn bản thân nữa, tịch diệt tham dục, không còn sinh tử – luân hồi. Phật giáo chủ trương bình đẳng (ai cũng có Phật tính) từ bi (thương yêu mọi loài).
Về giới luật của Phật giáo không phải xuất phát từ ý chí của thần thánh như ở các tôn giáo khác mà là dựa vào yêu cầu của luận lý. Giới luật căn bản của Phật giáo là 5 giới 10 thiện. 5 giới là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. 10 thiện: trong đó có ba thiện nghiệp về thân thể [cứu sinh, bá thí, giữ phẩm hạnh]; 4 thiện nghiệp về khẩu [ thành thực, hoà nhã, ái kính, ngay thẳng]; 3 thiện về ý [ thanh tịnh, từ bi, chính kiến]. Tóm lại, yêu cầu của Phật giáo về giới luật là tránh mọi điều ác, làm mọi điều thiện. Làm ác và không làm điều thiện đều là phạm giới. Phạm giới phải có đủ 3 điều kiện: tâm, cảnh, sự mới gọi là mắc tội phạm giới.
Trải qua quá trình vận động của lịch sử, ngay trên đất Ấn Độ đã xuất hiện nhiều hệ phái Phật giáo, họ đưa ra những quan điểm khác nhau.
Sau khi Siddharta mất, Phật giáo đã chia thành hai bộ phận: phái Thượng tọa bộ (Theravada) chủ trương duy trì giáo lý cùng cách hành đạo thời Đức Phật tại thế và phái Đại chúng bộ (Mahasamghika) với tư tưởng cải cách giáo lý và hành đạo cho phù hợp với thực tế. Khoảng thế kỷ II trCN xuất hiện nhiều phái Phật giáo khác nhau, về triết học có hai phái đáng chú ý là phái Nhất thiết hữu bộ (Sarvaxtivadin) và phái Kinh lượng bộ (Sautrànstika). Vào đầu công nguyên Phật giáo Đại thừa xuất hiện chủ trương tự giác, giác tha; họ gọi những người đối lập là Tiểu thừa. Ở Ấn Độ, Phật giáo bắt đầu suy dần từ thế kỷ IX và hoàn toàn sụp đổ trước sự tấn công của Hồi giáo vào thế kỷ XII.
c) Tư tưởng triết học thời kỳ sau Cổ điển.
Từ thế kỷ VII Đạo Hồi xâm nhập vào Ấn Độ, ở bình diện tư tưởng, cuộc cạnh tranh uy thế giữa đạo Phật, đạo Bàlamôn và đạo Hồi diễn ra ngày càng quyết liệt. Được sự ủng hộ của giai cấp thống trị là tín đồ của Hồi giáo, đạo Hồi từng bước phát triển. Sự phát triển của đạo Hồi đã làm cho đạo Phật suy yếu và đến thế kỷ XII, bị loại ra khỏi ý thức hệ người Ấn Độ. Đến đầu kỷ nguyên mới đạo Bàlamôn phát triển thành đạo Hinđu.
Đạo Hồi là tôn giáo do người ả Rập Mohamed sáng lập vào thế kỷ VII, tiếng ả Rập là Islam, có nghĩa là “thuận tòng”, “tuân theo” – tức là thuận tòng thánh Allah tối thượng và duy nhất, tuân theo vị sứ giả của thánh Allah là Mohamed. Đạo Hồi kết hợp tín ngưỡng dân gian Ả Rập, đạo Do Thái và đạo Kitô. Nó chống lại một số cơ sở và tư tưởng quá lạc hậu của công xã nguyên thủy, nhưng đồng thời nó thần thánh hóa sự bất bình đẳng trong thế giới Ả Rập, chế độ phong kiến và tàn dư chiếm hữu nô lệ. Cơ sở giáo lý của đạo Hồi là Kinh Koran và những truyền thống, tập quán (Sunna) gồm những tục lệ và hành động do Mohamed truyền lại. Đạo Hồi là đạo một thần, chỉ có một thượng đế là đức Allah (Ala). Mohamed là vị tiên tri của đức Allah. Tư tưởng triết học của Đạo Hồi được thể hiện trong kinh Koran. Kinh Koran cho rằng thánh Allah là côi nguồn của thế giới. Tính chất duy tâm của kinh Koran được thể hiện ở các nội dung sau.
Tin chân thánh: là chỉ tin thánh Allah ngoài ra không còn vị thần nào khác, thánh Allah là duy nhất. Đây là hạt nhân tín ngưỡng của đạo Hồi, không được phép thoả hiệp hoặc xem thường. Để củng cố đức tin đạo Hồi đòi hỏi tín đồ: trong lòng thành tín, ngoài miệng tụng niệm, thân thể tuân hành tuyệt đối không được hoài nghi, tranh biện, có như vậy mới đạt được tâm toàn tin.
Tin thiên sứ: Theo Kinh Koran thì có nhiều thiên sứ, mỗi thiên sứ cai quản một công việc: có thiên sứ lo quan sát, có thiên sứ lo truyền đạt, có thiên sứ chuyên theo dõi người chết… Theo truyền thuyết của Hồi giáo, trước khi thánh Allah lấy đất tạo ra con người đầu tiên, thì thánh Allah đã lấy ánh sáng tạo ra thiên sứ chấp hành mọi mệnh lệnh của đấng Allah, quan sát, theo dõi, ghi chép không bỏ sót mọi hành vi thiện, ác của con người trong suốt cuộc đời.
Tin kinh điển là lòng tin vào bộ Kinh Koran – Bộ kinh thần thánh do Allah khải thị cho nhà tiên tri Mohamed, từ đó xây dựng uy quyền tuyệt đối của kinh Koran.
Tin sứ giả là lòng tin vào người nhận mệnh lệnh của thánh Allah để truyền cho người đời. Tín điều này đòi hỏi các tín đồ tôn sùng Mohamed – sứ giả và nhà tiên tri của đức Allah.
Tin kiếp sau nghĩa là sau khi chết, con người có thể sống lại và chịu sự phán xét của thánh Allah vào ngày tận thế. Đạo Hồi cho rằng cuộc đời của con người là ngắn ngủi, kiếp sau là tồn tại vĩnh hằng, đây mới chính là nơi thực sự của mỗi con người.
Tin tiền định là hạt nhân của thuyết định mệnh Hồi giáo. Tín đồ Hồi giáo tin rằng số phận con người do thánh Allah an bài. Trước khi chào đời tất cả được sắp đặt xong xuôi, con người không có cách gì cưỡng lại được .
Thế giới quan của Đạo hồi là thế giới quan duy tâm, coi vũ trụ và con người do thánh Allah sáng tạo ra. Thánh Allah có sức mạnh toàn năng chi phối tất cả mọi sự vật, hiện tượng kể cả con người. Trong thế giới ấy chỉ có Mohamed là người kế tục được thánh Allah. Mỗi con người do thánh Allah sáng tạo ra có một số phận đã được định trước. Nhờ có thánh Alalh chỉ bảo nên con người mới xây dựng được cuộc sống của mình trên trái đất. Những ai không nghe lời dạy của thánh Allah sẽ bị đày xuống địa ngục khi chết, còn những người nghe lời sẽ được lên thiên đàng vì thế phải tuân theo ý chí của thánh Allah.
Như vậy, triết lý của đạo Hồi là triết lý duy tâm, ngoại lai, xâm nhập vào Ấn Độ, nó là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị ở Ấn Độ trong thời kỳ chế độ phong kiến suy tàn.
3. Một số kết luận về triết học Ấn Độ cổ, trung đại
a) Triết học Ấn Độ ra đời sớm, đồ sộ về quy mô và số lượng tác phẩm, sự đa dạng các trường phái, sự phong phú cách thể hiện, sự sâu rộng nội dung phản ánh. Vì vậy, triết học Ấn Độ cổ, trung đại là một trong những cội nguồn của nền văn minh nhân loại nói chung, cội nguồn của nền triết học thế giới nói riêng.
b) Trong quá trình vận động và phát triển, nền triết học Ấn Độ cổ, trung đại chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo, nên giữa triết học và tôn giáo rất khó phân biệt. Tư tưởng triết học ẩn dấu sau các lễ nghi huyền bí, chân lý thể hiện qua Kinh Véda và Upanisad. Vì vậy, từ thời kỳ cổ điển về sau, trừ trường phái duy vật điển hình Lokàyata đã mất đi từ sớm, còn các trường phái triết học khác có một sự chuyển biến giống nhau là từ chủ nghĩa duy vật sang chủ nghĩa duy tâm, từ vô thần sang hữu thần. Các vấn đề lớn của triết học như bản thể luận, nhận thức luận, vấn đề con người và cuộc sống của con người đều được lý giải một cách duy tâm:
– Vấn đề bản thể luận, trong tư tưởng triết học từ thời sơ khai đã có mầm mống và sau đó từ thời cổ điển trở đi, đã có hai quan điểm đối lập nhau là coi thế giới bị chi phối bởi một nguyên lý phi nhân cách và quan niệm coi một vị Thượng đế nhân cách hóa điều khiển mọi quá trình vũ trụ. Vấn đề quan tâm hàng đầu của các trường phái là mối quan hệ giữa tinh thần vũ trụ tối cao (Brahman) với linh hồn con người (Atman). Họ đã giải thích duy tâm rằng Brahman là thực thể duy nhất, có trước, bất diệt sinh ra tất cả các sự vật, hiện tượng của thế giới và sự nhập về với Brahman của tất cả mọi sự vật hiện tượng trong thế giới. Mọi sự vật, hiện tượng đều có Atman, và Atman là một bộ phận của Brahman.
– Vấn đề con người và cuộc sống của con người, là vấn đề triết học Ấn Độ cổ trung đại rất quan tâm. Nhưng do ảnh hưởng tư tưởng luân hồi của kinh Upanisad, do hạn chế của lịch sử, các nhà tư tưởng đã không tìm thấy nguyên nhân đau khổ của con người là trong đời sống kinh tế – xã hội mà là trong nhận thức, do “Vô minh”. Vì thế, hầu hết các trường phái triết học đều tập trung giải quyết vấn đề nhân sinh bằng con đường “giải thoát” mang màu sắc duy tâm.
– Về nhận thức, để giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng vây hãm của luân hồi nghiệp báo, thì phải có tri thức. Con đường đạt tới tri thức không phải là hoạt động nhận thức thông qua sự tác động qua lại của chủ thể và khách thể mà phải Thiền. Thiền là con đường trực giác thực nghiệm tâm linh của con người để nhận ra chân bản của mình, để linh hồn (Atman) đồng nhất với tinh thần vũ trụ tối cao (Brahman).
c) Khi giải quyết các vấn đề của triết học, các hệ thống triết học Ấn Độ cổ đại chỉ tôn trọng quá khứ, có khuynh hướng phục cổ. Khác với triết học phương Tây, các nhà triết học không đặt ra mục đích tạo ra một loại triết học mới thông qua phê phán có kế thừa nền triết học trước đó mà chỉ tập trung bảo vệ, lý giải và các quan niệm ban đầu. Vì vậy, các vấn đề triết học của các bậc tiền bối đặt ra được bàn sâu sắc, nhưng không phong phú.
d) Khi bàn đến vấn đề bản thể luận, một số phái triết học đã đưa ra phạm trù “tính không”, đem đối lập “không” và “có”, quy cái “có” về cái “không”, thể hiện một trình độ tư duy trừu tượng cao.