1. Sản xuất nông nghiệp là gì?
Nông nghiệp là ngành sản xuất ra đời đầu tiên, gắn với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Sản xuất nông nghiệp theo nghĩa hẹp bao gồm hai ngành chính là trồng trọt và chăn nuôi, còn theo nghĩa rộng, hoạt động sản xuất nông nghiệp ngoài trồng trọt và chăn nuôi còn bao gồm cả các ngành lâm – ngư nghiệp. Mặt khác, khi nghiên cứu giải quyết các vấn đề có liên quan đến sản xuất nông nghiệp phải đặt nông nghiệp trong mối quan hệ mật thiết với kinh tế nông thôn và vấn đề nông dân. Có thể nói nông nghiệp, nông thôn và nông dân là 3 vấn đề không thể tách rời trong quá trình phát triển nông nghiệp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất có những đặc điểm riêng biệt, “tuyệt đối không thể bỏ qua” được. Những đặc điểm đó có ảnh hưởng rất lớn đến công tác tổ chức quản lý cũng như việc đề ra các chính sách, giải pháp kinh tế đối với nông nghiệp.
1.1. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp
Là những cơ thể sinh vật (cây trồng, vật nuôi), chúng sinh trưởng và phát triển theo những quy luật sinh vật riêng và chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên (quy luật vận động của thời tiết, khí hậu …). Do đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những cây trồng, vật nuôi nên sản phẩm nông nghiệp là những sản phẩm tươi sống có hàm lượng nước cao (có loại rất cao) nên chóng bị hỏng, gây tổn thất sau thu hoạch rất lớn. Có thể nói sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn của các yếu tố tự nhiên và phụ thuộc vào sự thay đổi của các yếu tố đó. Vì vậy, trong quá trình phát triển nông nghiệp, con người không thể ngăn cản hay can thiệp thô bạo vào quá trình sinh vật, trái lại phải nghiên cứu và nhận thức được các quy luật đó để vận dụng thích hợp vào sản xuất.
Từ đặc điểm này có thể rút ra kết luận: Nông nghiệp không thể là một hệ thống kinh tế đơn thuần mà là một hệ thống sinh vật – kỹ thuật. Nó là một trong những ngành kinh tế phức tạp nhất.
Nhận thức đặc điểm này giúp cho ta có biện pháp phân vùng, quy hoạch sản xuất, bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế (thế mạnh) từng vùng, từng địa phương cũng như từng cơ sở sản xuất. Trong quá trình xây dựng, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật và đưa tiến bộ khoa học – công nghệ vào sản xuất nông nghiệp phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm sinh lý, yêu cầu về kỹ thuật sản xuất (kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch) của từng loại cây trồng, vật nuôi. Việc nghiên cứu sản xuất giống mới, nhập khẩu giống mới vào sản xuất nông nghiệp cần phải thận trọng, phải qua khảo nghiệm, kiểm tra chặt chẽ và phải được khu vực hoá đối với từng loại giống. Nếu việc bố trí các loại cây trồng, vật nuôi không phù hợp với từng vùng sinh thái từng loại đất đai hoặc nhập khẩu các loại giống cây trồng, vật nuôi không thích hợp sẽ gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp.
Nhận thức và vận dụng các quy luật sinh vật vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp không có nghĩa là con người hoàn toàn lệ thuộc vào chúng và bất lực trước tự nhiên. Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, con người ngày càng có khả năng cải tạo tự nhiên, phục vụ tốt hơn cho sản xuất và đời sống. Vì vậy, mỗi quốc gia, bên cạnh việc thực hiện các giải pháp trên cần có chiến lược đầu tư cải tạo, chinh phục thiên nhiên, phục vụ phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá, đặc biệt là những vùng có khả năng …
Do chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự nhiên nên sản xuất nông nghiệp thường gặp phải thiên tai, gây thiệt hại lớn đến kết quả thu hoạch. Vì vậy, đòi hỏi Nhà nước phải nghiên cứu các chính sách bảo hiểm sản xuất, chính sách bảo trợ cho sản xuất nông nghiệp nói chung và chính sách hỗ trợ cho nông thôn khi có thiên tai nói riêng …
Do đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp nên để giảm tổn thất sau thu hoạch và đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu cần chú trọng đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch như chế biến, bảo quản, vận chuyển, hệ thống kho chứa .v.v…
1.2. Chu kỳ sản xuất nông nghiệp nói chung là dài và không giống nhau giữa các loại cây trồng, vật nuôi
Do đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sinh vật nên kết quả sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào quy luật sinh trưởng, phát dục của từng loại cây trồng, vật nuôi. Vì vậy trong nông nghiệp chu kỳ sản xuất nói chung là dài và không giống nhau giữa các loại cây trồng, vật nuôi. Đối với những cây trồng ngắn ngày (cây lương thực, rau, đậu …) hay những vật nuôi chóng cho sản phẩm (gia cầm) cũng phải từ 2 đến 3 tháng. Còn đối với những cây lâu năm (cây công nghiệp, cây ăn quả …), các loại gia súc lớn (trâu, bò …) thì phải từ 3 đến 5 năm hoặc lâu hơn nữa mới cho sản phẩm và cho thu hoạch trong nhiều năm.
Đặc điểm này đòi hỏi khi xây dựng kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản (xây dựng vườn cây lâu năm), xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh phải phù hợp với chu kỳ sản xuất, chu kỳ kinh doanh của từng loại cây trồng, vật nuôi. Cần tính toán chặt chẽ nhu cầu vật tư, tiền vốn đảm bảo quá trình sản xuất tiến hành thuận lợi. Việc nghiên cứu áp dụng các chính sách kinh tế, nhất là các chính sách tài chính, tín dụng vào nông nghiệp cần xem xét cụ thể cho phù hợp với chu kỳ sản xuất của từng loại cây, con. Trong đó ngành tài chính, ngân hàng cần lưu ý xác định thời hạn cho vay và lãi suất phù hợp với nông nghiệp. Cần áp dụng nhiều loại thời hạn cho vay (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) để khuyến khích nông nghiệp (chủ yếu là nông dân) đầu tư phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có hiệu quả, khai thác lợi thế nông nghiệp nhiệt đới (trồng cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm …) hoặc đầu tư cải tạo đất đai … Trong công tác tổ chức quản lý, cần áp dụng hình thức tổ chức sản xuất thích hợp để người lao động quan tâm đến tất cả các khâu, các công đoạn của chu kỳ sản xuất nhằm đạt kết quả cuối cùng cao nhất.
Do chu kỳ sản xuất dài và phụ thuộc vào chu kỳ sinh học nên trong nông nghiệp, thời gian lao động không trùng khớp với thời gian tạo ra sản phẩm. Khi kết thúc một quá trình lao động cụ thể như làm đất, gieo trồng … chưa có sản phẩm ngay mà phải chờ đến khi thu hoạch. Vì vậy đòi hỏi trong nông nghiệp, phải tìm ra hình thức tổ chức kinh tế, hình thức tổ chức lao động và trả công lao động thích hợp, gắn người lao động với đối tượng sản xuất và với kết quả cuối cùng để họ quan tâm và tìm cách tạo ra nhiều sản phẩm với chất lượng và giá thành hạ.
1.3. Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ rất lớn
Do cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp có quy luật sinh trưởng và phát triển riêng nên sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ rất rõ rệt. Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, có thời kỳ nhu cầu tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền vốn rất căng thẳng (thời kỳ làm đất, gieo trồng …), ngược lại có thời kỳ lại rất nhàn rỗi (thời kỳ chăm sóc). Mặt khác, do sự biến đổi của thời tiết, khí hậu giữa các mùa nên mỗi loại cây trồng thường có sự thích nghi nhất định với điều kiện đó dẫn đến thời vụ gieo trồng và thu hoạch của các loại cây trồng cũng rất khác nhau. Muốn hạn chế tính chất thời vụ cần lưu ý, ở thời kỳ căng thẳng cần đảm bảo đủ nhu cầu về công cụ sản xuất, tập trung sức lao động, tiền vốn kịp thời. Cần có kế hoạch dự trữ vật tư, kỹ thuật; kế hoạch huy động sức lao động và vốn để đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu trong lúc mùa vụ khẩn trương. Để giảm bớt tình trạng nông nhàn, cần quan tâm phát triển nông nghiệp toàn diện, nhất là quan tâm khôi phục các ngành nghề truyền thống, phát triển các ngành công nghiệp nông thôn và các hoạt động dịch vụ … Về phía Nhà nước và các ngành dịch vụ nông nghiệp (tín dụng, vật tư, thuỷ nông …) cần nghiên cứu thực hiện các chính sách, giải pháp để đáp ứng kịp thời nhu cầu vật tư tiền vốn cũng như các dịch vụ kỹ thuật; đáp ứng kịp thời nhu cầu thời vụ của từng loại cây trồng.
Do sản xuất và thu hoạch theo thời vụ nên quy luật cung cầu có tác động rất mạnh đến giá cả các loại nông sản (thông thường giá giảm vào thời kỳ thu hoạch, tăng vào đầu kỳ hoặc cuối kỳ thu hoạch hay lúc giáp hạt). Vì vậy, Nhà nước cần đầu tư nghiên cứu các chính sách và giải phát cụ thể để điều tiết cung cầu, đảm bảo lợi ích cho người sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn đối với lương thực hoặc một số nông sản xuất khẩu chủ lực, khi giá thị trường xuống quá thấp, gây bất lợi cho nông dân, Nhà nước có thể quy định giá sàn và bắt buộc các tổ chức kinh doanh, xuất khẩu mua dự trữ. Trong thời gian dự trữ, các tổ chức đó được Nhà nước cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, thậm chí không lấy lãi. Hoặc Nhà nước đầu tư cho việc nghiên cứu công nghệ chế biến, bảo quản sản phẩm để tránh tổn thất sau thu hoạch, kéo dài thời gian tiêu thụ có ích cho người sản xuất.
1.4. Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất cơ bản hàng đầu và đặc biệt, không thể thiếu, không thể thay thế được
Ruộng đất tham gia trực tiếp vào quá trình tạo ra sản phẩm nông nghiệp.
Nó không chỉ là điều kiện vật chất để tồn tại ngành này mà còn tham gia với vai trò là tư liệu sản xuất cơ bản của nông nghiệp. Hậu quả của sản xuất nông nghiệp nói chung phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng ruộng đất. Mặt khác, hiệu quả sử dụng ruộng đất lại phụ thuộc vào mức độ đầu tư các tư liệu sản xuất khác (vật tư, giống, thuỷ lợi …), đầu tư vốn vào đơn vị diện tích đất đai sử dụng và phụ thuộc vào việc giải quyết mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất, giải quyết mối quan hệ giữa ruộng đất và nông thôn.
Ruộng đất tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp với tư cách là tư liệu sản xuất nhưng nó có những đặc điểm khác với các tư liệu sản xuất khác: ruộng đất là tài nguyên thiên nhiên có giới hạn về diện tích, có vị trí cố định và chất lượng đất đai không đồng đều giữa các vùng… Những đặc điểm đó ảnh có hưởng lớn đến việc khai thác, sử dụng ruộng đất vì vậy cần được nghiên cứu và vận dụng một cách thích hợp vào thực tiễn phát triển nông nghiệp. Trong đó cần đặc biệt quan tâm đến chính sách đầu tư cho công tác phân vùng, quy hoạch sử dụng ruộng đất, đầu tư xây dựng các công trình bảo vệ, cải tạo đất và sử dụng ruộng đất; chính sách thuế sử dụng đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng.
1.5. Sản xuất nông nghiệp diễn ra trên phạm vi không gian rộng lớn phức tạp và mang tính khu vực rất rõ nét
Hoạt động sản xuất nông nghiệp bao gồm các khâu từ cung ứng các điều kiện sản xuất (cung ứng các yếu tố đầu vào) đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Các hoạt động đó được tiến hành trên một địa bàn rộng lớn, phức tạp, thuộc nhiều vùng lãnh thổ có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội cũng như lịch sử truyền thống rất khác nhau. Mỗi vùng, mỗi địa phương có những lợi thế riêng, đồng thời cũng có những khó khăn, phức tạp trong khi phát triển kinh tế – xã hội nói chung và nông nghiệp nói riêng.
Vì vậy sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả cao cần tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các ngành có liên quan, từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Cần gắn phát triển nông nghiệp với lâm – ngư nghiệp và công nghiệp chế biến ở từng địa phương, từng vùng lãnh thổ. Việc quy hoạch các vùng nông nghiệp chuyên môn hoá (vùng lúa, chè, cà phê, mía …) cần gắn với việc quy hoạch phát triển giao thông vận tải, các ngành dịch vụ và công nghiệp chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm.
Để tận dụng được lợi thế so sánh của từng vùng trong phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng, cần làm tốt công tác phân vùng, quy hoạch và bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện từng vùng. Đồng thời, Nhà nước cần quan tâm đầu tư đồng bộ cho các vùng, các địa phương về cơ sở hạ tầng cũng như đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là những vùng khó khăn, những vùng chậm phát triển. Cần nghiên cứu và thực hiện các chính sách ưu đãi đối với những vùng khó khăn trong phát triển kinh tế – xã hội. Đối với những vùng có nhiều lợi thế trong phát triển nông nghiệp, cần có chính sách ưu tiên trong đầu tư vốn, tạo điều kiện và khuyến khích các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài đầu tư vào các vùng đó.
2. Vai trò của sản xuất nông nghiệp đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Trong lịch sử phát triển của xã hôi loài người, nông nghiệp là ngành sản xuất ra đời đầu tiên. Đã từ lâu, nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội và ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
a/ Nông nghiệp là ngành sản xuất và cung cấp những sản phẩm tiêu dùng thiết yếu, có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của loài người như lương thực, thực phẩm. Đây là những vật phẩm tiêu dùng không thể thay thế được đối với đời sống con người. Như C.Mác đã khẳng định “Trước hết con người cần phải có ăn, uống, ở và mặc trước khi lo chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật và tôn giáo …”. Trên ý nghĩa đó, nông nghiệp trở thành ngành sản xuất đảm bảo những điều kiện đầu tiên cho loài người tồn tại, phát triển và là điều kiện không thể thiếu đảm bảo cho tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững.
b/ Nông nghiệp là ngành có thể tự sản xuất ra những tư liệu sản xuất không thể thay thế để tái sản xuất bản thân ngành nông nghiệp (như các loại giống cây trồng, vật nuôi, thức ăn chăn nuôi …); đồng thời nông nghiệp còn
cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển như: các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, một số ngành công nghiệp nặng và các ngành dịch vụ ăn uống, giải khát … Có thể nói sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu do nông nghiệp cung cấp. Mặt khác sản phẩm nông nghiệp qua chế biến sẽ được nâng cao chất lượng, tăng thêm giá trị và giá trị sử dụng, đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu, từ đó thúc đẩy các ngành công nghiệp, dịch vụ cũng như nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Vì vậy, các nước xuất khẩu nông sản đều rất chú trọng đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, hạ thấp tỷ lệ sản phẩm sơ chế, nâng dần tỷ lệ sản phẩm tinh chế, nhất là những mặt hàng phục vụ xuất khẩu.
Nông nghiệp là nơi sản xuất và cung cấp các mặt hàng xuất khẩu có giá trị, tạo nguồn tích luỹ ban đầu và thường xuyên cho nền kinh tế. Thông qua xuất khẩu nông sản, nông nghiệp đã đóng góp tích luỹ ngày càng nhiều cho nền kinh tế, đồng thời góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đối với nước ta, xuất khẩu nông sản và những mặt hàng tiểu thủ công nghiệp đang là thế mạnh, tạo điều kiện cho nền kinh tế đất nước cũng như nông nghiệp, nông thôn tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ của thế giới, nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế của khu vực và trên thế giới. Trong những năm qua, nông nghiệp và nông thôn nước ta đã tạo ra nhiều mặt hàng xuất khẩu quan trọng như: gạo, chè, cà phê, cao su, các sản phẩm thủ công, mỹ nghê, các mặt hàng thuỷ, hải sản … đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho nền kinh tế. Đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất lương thực, nông nghiệp nước ta đã đạt thành tựu rất khả quan. Từ một nước thường xuyên phải nhập lương thực, nạn đói thường xuyên đe doạ; đến nay, nước ta chẳng những tự giải quyết được nhu cầu lương thực mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan). Liên tục từ năm 1989 đến nay, lượng gạo xuất khẩu của nước ta ngày càng tăng (từ 1,42 triệu tấn năm 1989 đã tăng lên 4,5 triệu tấn năm 1999, và 3,5 triệu tấn vào năm 2000, 2001).
c/ Nông nghiệp là nơi cung cấp nguồn nhân lực dồi dào cho các ngành kinh tế xã hội phát triển
Có thể nói, nông nghiệp là ngành duy nhất, dưới tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ, số lượng lao động ngày càng giảm xuống cả tương đối và tuyệt đối. Nhờ đó nông nghiệp có thể tạo ra lao động dư thừa để chuyển dần sang phát triển công nghiệp, dịch vụ và các lĩnh vực khác.
Ở nước ta, theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê thì lao động nông nghiệp vẫn chiếm khoảng 70% tổng số lao động xã hội và 76,5% dân số đang sống ở vùng nông thôn. Đó là một nguồn tiềm năng lao động quý giá, là đội quân dự bị hùng hậu cho phát triển công nghiệp, dịch vụ trong tương lai khi nền kinh tế đất nước chuyển sang giai đoạn công nghiệp hoá – hiện đại hoá.
d/ Nông nghiệp còn là thị trường rộng lớn để tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của các ngành công nghiệp và dịch vụ, góp phần quan trọng thúc đẩy các ngành tăng trưởng và phát triển
Nông nghiệp càng phát triển thì các nhu cầu về tư liệu sản xuất (máy móc,
thiết bị, phân bón, hoá chất …) và tư liệu tiêu dùng cũng như nhu cầu dịch vụ ngày càng nhiều sẽ tạo ra sức mua ngày càng lớn đối với các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ. Ngược lại, nếu nông nghiệp kém phát triển, lạc hậu, sức mua thấp thì công nghiệp và dịch vụ cũng không phát triển được.
Vì vậy, muốn nông nghiệp, nông thôn trở thành thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp và dịch vụ, trước hết phải quan tâm phát triển toàn diện kinh tế nông nghiệp, nông thôn; tạo điều kiện cho nông dân chuyển sang phát triển sản xuất hàng hoá, để nâng dần sức mua của nông dân.
e/ Sự phát triển của nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ phát triển kinh tế đất nước và tốc độ tăng trưởng GDP, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển và chủ yếu là sản xuất nông nghiệp như nước ta.
Trong những năm 80, hàng năm nông nghiệp tạo ra từ 40 – 50% thu nhập quốc dân. Đến nay, nông nghiệp nước ta vẫn chiếm tỷ trọng cao trong GDP (năm 1999 là 25,4%, năm 2000 là 24,3% trong GDP của nền kinh tế).
Phát triển nông nghiệp sẽ làm tăng nguồn dự trữ lương thực cho quốc gia, đảm bảo nhu cầu cho quân đội, tăng cường khả năng quốc phòng cho đất nước. Dự trữ lương thực là vấn đề sống còn của mỗi nước, là tiềm lực kinh tế thể hiện sức mạnh thực sự của mỗi quốc gia. Đảm bảo dự trữ lương thực sẽ hạn chế những khó khăn, những rủi ro trong phát triển kinh tế và đời sống nhân dân, tạo cơ sở cho việc ổn định và phát triển đất nước, giữ vững an ninh và chủ quyền dân tộc.
g/ Phát triển nông nghiệp còn có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ và cải tạo môi trường thiên nhiên.
Với đối tượng sản xuất là cây trồng, vật nuôi gắn liền với đất đai, phát triển nông nghiệp tạo nên một hệ sinh thái hoàn chỉnh, đảm bảo sự phát triển cân bằng giữa các vùng, góp phần vào việc bảo vệ môi sinh. Tuy nhiên muốn nông nghiệp thực sự đóng góp vào việc bảo vệ môi trường, đòi hỏi mỗi nước phải có một chiến lược phát triển nông nghiệp đúng đắn, phải biết khai thác lợi thế phát triển nông nghiệp từng vùng, phải biết kết hợp nhiều loại nông sản theo một hệ sinh thái hoàn chỉnh, tránh sử dụng quá mức các loại hoá chất, tiến tới phát triển một nền nông nghiệp sạch, nền nông nghiệp sinh thái.
Như vậy, xét trên các mặt về kinh tế, xã hội và môi trường thì nông nghiệp có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi nước. Trong điều kiện hiện nay, hầu hết các nước đều nhận rõ: Nếu không có một nền nông nghiệp phát triển, một nền nông nghiệp tiên tiến thì nền kinh tế quốc dân khó có thể phát triển vững chắc với tốc độ cao được. Thực tế ở nhiều nước đã chứng minh, nước nào có nền nông nghiệp phát triển vững chắc đều đạt được những bước phát triển ổn định về kinh tế. Nông nghiệp được coi là điểm xuất phát của phát triển hay cải cách kinh tế của nhiều quốc gia. Vì vậy, các quốc gia đều rất chú trọng đến phát triển nông nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.
Đối với nước ta, từ một nước mà nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và tuyệt đại bộ phận dân số đang sống ở nông thôn, thì nông nghiệp, nông thôn càng có vị trí và vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Nhận thức được điều đó nên trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế qua các thời kỳ, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đặc biệt đến phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Ở mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước, trong đường lối phát triển kinh tế – xã hội của Đảng đều khẳng định vị trí quan trọng hàng đầu của nông nghiệp, nông thôn: coi việc “phát triển nông – lâm – ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện nền kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế – xã hội”.
Để phát huy vai trò quan trọng của nông nghiệp đối với phát triển kinh tế – xã hội thì con đường tất yếu là phải chuyển nông nghiệp nước ta từ tình trạng phổ biến là sản xuất nhỏ, tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá. Đó là xu hướng phát triển tất yếu, hợp quy luật chuyển biến từ nền nông nghiệp truyền thống, lạc hậu thành nền nông nghiệp tiên tiến, hiện đại. Tuy nhiên cần nhận thấy rằng đưa nông nghiệp sang phát triển sản xuất hàng hoá là quá trình lâu dài, đầy khó khăn và phức tạp. Quá trình đó đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng không những của bản thân ngành nông nghiệp, mà cần có sự giúp đỡ của các ngành và đặc biệt là sự hỗ trợ của Nhà nước. Nhà nước phải chủ động điều khiển và tạo điều kiện thuận lợi để hình thành dần những đặc trưng của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá; cần có chính sách gắn được sự phát triển của nông nghiệp với công nghiệp, thương mại – dịch vụ và các ngành, các lĩnh vực có liên quan khác …
(Nguồn tài liệu: Giáo trình Kinh tế phát triển, Trường cao đẳng nghề Nam Định)