Lý thuyết (Theory) là gì, tại sao chúng ta cần các lý thuyết trong nghiên cứu, các thành phần của một lý thuyết là gì?
Lý thuyết (Theory) là gì?
Lý thuyết là các giải thích về một hành vi, sự kiện hay hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội. Chính thống hơn, lý thuyết khoa học là một hệ thống các phạm trù (khái niệm) và các luận điểm (mối quan hệ giữa những phạm trù) trình bày một giải thích hợp lý, có hệ thống và mạch lạc về một hiện tượng được quan tâm trong phạm vi một số giả thiết và điều kiện nhất định (Bacharach 1989).
Lý thuyết nên giải thích lý do tại sao sự việc xảy ra hơn là chỉ mô tả hoặc dự đoán. Lưu ý rằng có thể dự đoán các sự kiện hoặc hành vi bằng cách sử dụng một tập hợp các yếu tố dự báo mà không nhất thiết phải giải thích lý do tại sao những sự kiện như vậy đang diễn ra. Ví dụ, các nhà phân tích thị trường dự đoán biến động của thị trường chứng khoán dựa trên thông báo thị trường, báo cáo thu nhập của các công ty lớn, các dữ liệu mới từ Cục Dự trữ Liên bang và các cơ quan khác, dựa trên mối tương quan đã quan sát trước đó. Dự đoán chỉ đơn thuần đòi hỏi phân tích mối tương quan (correlations). Ngược lại, giải thích yêu cầu sự hiểu biết về mối quan hệ nhân – quả (causations).
Thiết lập mối quan hệ nhân quả đòi hỏi phải có ba điều kiện: (1) mối tương quan giữa hai phạm trù, (2) ưu tiên về thời gian (nguyên nhân phải diễn ra trước kết quả trong một khoảng thời gian nhất định), và (3) sự bác bỏ các giả thuyết thay thế (thông qua kiểm nghiệm). Các lý thuyết khoa học khác với các giải thích thần học, triết học,… ở chỗ lý thuyết khoa học có thể được kiểm nghiệm bằng cách sử dụng các phương pháp khoa học.
Giải thích có thể là giải thích cá biệt hoặc giải thích phổ quát.
Giải thích cá biệt (idiographic explanation) là giải thích duy nhất một tình huống một cách chi tiết và đặc thù.
Ví dụ, bạn đã không làm tốt trong một kỳ thi vì: (1) bạn đã quên là bạn có một bài kiểm tra vào ngày hôm đó, (2) bạn đến muộn buổi thi do ùn tắc giao thông, (3) bạn hoảng sợ khi đang thi, (4) bạn phải làm việc muộn vào buổi tối hôm trước và không thể ôn thi hoặc thậm chí (5) con chó của bạn cắn nát cuốn sách mà bạn cần phải ôn tập. Những lời giải thích có thể chi tiết, chính xác, hợp lệ, nhưng chúng có thể không áp dụng cho các tình huống khác tương tự, thậm chí liên quan đến cùng một người, do đó không thể khái quát được.
Ngược lại, giải thích phổ quát (nomothetic explanation) là việc tìm kiếm lời giải thích cho một nhóm các tình huống hoặc các sự kiện chứ không phải là một tình huống hoặc sự kiện cụ thể. Ví dụ, sinh viên làm kém trong các kỳ thi là do họ không dành đủ thời gian chuẩn bị cho các kỳ thi hoặc họ bị căng thẳng, thiếu tập trung hoặc bị một số rối loạn y khoa khác. Do trong giải thích phổ quát, các lý thuyết được thiết kế để có thể khái quát nhiều tình huống, nhiều sự kiện khác nhau nên có xu hướng ít chính xác, ít hoàn chỉnh và ít chi tiết hơn. Tuy nhiên, lý thuyết giải thích thường cô đọng, chỉ sử dụng ít các biến số giảng giải. Bởi mục đích của lý thuyết là đưa ra những giải thích có khả năng khái quát cho cơ chế hoạt động của các sự kiện, hành vi hoặc hiện tượng, nên nhìn chung, bản chất giải thích của lý thuyết là khái quát.
Khi tìm hiểu về lý thuyết, việc hiểu những gì không phải là lý thuyết cũng rất quan trọng. Lý thuyết không phải là dữ liệu, các sự kiện, mô hình hoạt động, phép phân loại hoặc các kết quả thực nghiệm. Một bộ sưu tập các sự kiện thực tế không phải là một lý thuyết, nó giống như một đống gạch đá mà không phải là một ngôi nhà. Tương tự như vậy, một bộ sưu tập của các phạm trù (ví dụ, một hệ loại phạm trù) không phải là một lý thuyết. Lý thuyết phải đi vượt ra khỏi các phạm trù tới mức độ bao gồm cả các luận điểm, giải thích và điều kiện nhất định. Các dữ liệu, sự kiện hay kết quả tìm kiếm chỉ đơn thuần là những quan sát thực nghiệm, trong khi đó lý thuyết được xem xét ở mức độ nhận thức và dựa trên lập luận chứ không chỉ là những quan sát đơn thuần.
Có rất nhiều lợi ích khi sử dụng các lý thuyết vào trong nghiên cứu. Đầu tiên, lý thuyết cung cấp nhận thức cơ bản của sự xuất hiện các hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội bằng cách giải thích đâu là , quá trình vận động và kết quả vận động của hiện tượng đó. Thứ hai, lý thuyết cung cấp một hệ quy chiếu giúp các kết quả nghiên cứu thực nghiệm trước; lý giải sự khác biệt kết quả nghiên cứu do các yếu tố ngẫu nhiên ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa hai phạm trù trong các nghiên cứu khác. Thứ ba, các lý thuyết cung cấp những định hướng cho các nghiên cứu trong tương lai bằng việc giúp nhận diện các phạm trù và các mối quan hệ có giá trị cho nghiên cứu sâu hơn. Thứ tư, lý thuyết có thể đóng góp vào kho tàng tri thức bằng cách lấp đầy khoảng trống giữa các lý thuyết khác nhau và tạo ra nhu cầu đánh giá lại các lý thuyết hiện có trong bối cảnh mới.
Tuy nhiên, lý thuyết cũng có thể có những hạn chế riêng nó. Lý thuyết không phải lúc nào cũng cung cấp các giải thích đầy đủ cho các hiện tượng quan tâm bởi nó chỉ giải thích đơn giản, khái quát thực tế bằng một hệ thống giới hạn các phạm trù và mối quan hệ. Lý thuyết được xây dựng để trở thành những giải thích đơn giản và ngắn gọn, trong khi thực tế có thể phức tạp hơn rất nhiều. Hơn nữa, lý thuyết có thể hạn chế bởi năng lực và tầm nhìn của nhà nghiên cứu, khiến họ bỏ lỡ các khái niệm quan trọng do chưa được định nghĩa trong lý thuyết.
Các thành tố của một lý thuyết
David Whetten (1989) đã đề xướng rằng có bốn yếu tố cấu thành nên một lý thuyết: phạm trù, luận điểm, lập luận và điều kiện hay giả thiết giới hạn. Phạm trù đảm nhiệm vai trò “là gì” của lý thuyết (ví dụ các khái niệm nào là quan trọng để giải thích một hiện tượng), luận điểm đảm nhiệm vai trò “như thế nào” (các khái niệm, phạm trù liên hệ với nhau như thế nào), lập luận giữ vai trò “tại sao” (ví dụ: tại sao các khái niệm liên kết với nhau như vậy) và điều kiện hay giả thiết giới hạn kiểm tra yếu tố “ai, khi nào và ở đâu” (như trong những tình huống cụ thể nào các phạm trù và mối quan hệ phát huy vai trò).
Phạm trù là khái niệm trừu tượng được khái quát ở mức độ cao, được lựa chọn cẩn thận để giải thích hiện tượng quan tâm. Phạm trù có thể là đơn (đại diện cho một khái niệm duy nhất) như độ tuổi, cân nặng; nhưng cũng có thể là phức (đại diện cho nhiều khái niệm ẩn) ví như tính cách cá nhân hay nền văn hóa. Trong khi một số phạm trù như độ tuổi, trình độ học vấn hay quy mô tổ chức có thể dễ hiểu, thì một số khác như tính sáng tạo, định kiến hay sự linh hoạt của tổ chức có thể phức tạp hơn; những phạm trù khác như sự tin tưởng, thái độ hay học tập có thể đề cập tới những xu thế nhất thời mà không phải là những trạng thái ổn định. Tuy vậy, tất cả các phạm trù phải có những định nghĩa thao tác rõ ràng, mạch lạc, cụ thể cách thức các phạm trù đó được đo lường và cấp độ phân tích (cá nhân, nhóm hay tổ chức). Hình thức có thể đánh giá được của các phạm trù trừu tượng được gọi là các biến số. Ví dụ, chỉ số IQ là biến số được sử dụng để đánh giá một phạm trù trừu tượng đó là trí thông minh. Như đã đề cập ở phần trước, tiến trình nghiên cứu diễn ra trên hai mặt phẳng: một mặt phẳng lý thuyết và một mặt phẳng thực nghiệm. Các phạm trù được nhận thức và định nghĩa ở mặt phẳng lý thuyết trong khi các biến được thao tác và đánh giá ở mặt phẳng thực nghiệm (bằng quan sát). Hơn nữa, các biến có thể độc lập, phụ thuộc, trung gian, điều hòa hay kiểm soát như được bàn luận trong Chương 2. Sự khác biệt giữa phạm trù và biến số được minh họa trong Hình 4.1.
Luận điểm là những mối liên hệ giữa các phạm trù dựa trên lập luận diễn dịch. Luận điểm được phát biểu dưới hình thức thông báo và chỉ rõ mối quan hệ nhân – quả (ví dụ, nếu X xuất hiện, sau đó Y sẽ hình thành). Lưu ý rằng luận điểm có thể là phỏng đoán, nhưng một điều bắt buộc là nội dung của nó có thể kiểm chứng được bằng quan sát thực nghiệm các biến tương ứng của chúng và nhà nghiên cứu nên loại bỏ những luận điểm không thỏa mãn điều kiện này. Tuy nhiên, giống như phạm trù, luận điểm được phát biểu ở mức độ lý thuyết, chúng chỉ có thể được kiểm định bằng cách kiểm tra các mối quan hệ giữa các biến tương ứng có thể đo lường được với những phạm trù đó. Việc hình thành các luận điểm qua thực nghiệm, thể hiện mối quan hệ giữa các biến, được gọi là giả thuyết. Sự khác biệt giữa các luận điểm (hình thành ở cấp độ lý thuyết) và giả thuyết (kiểm nghiệm ở cấp độ thực nghiệm) được mô tả trong Hình 4.1.
Cuối cùng, tất cả các lý thuyết đều bị giới hạn bởi các giả định (hay giả thiết – assumption) về giá trị, thời gian và không gian; điều kiện biên (boundary condition), các giả định và điều kiện này chi phối tình huống nào lý thuyết có thể được áp dụng và tình huống nào nó không có ý nghĩa. Ví dụ, nhiều lý thuyết kinh tế giả định rằng dù ít hay nhiều con người luôn thực dụng và duy lý. Chính vì vậy để hiểu hành vi con người, các lý thuyết này theo đuổi cách tiếp cận tối đa hóa sự thiết thực, dựa trên kỳ vọng của người dùng về chi phí bỏ ra và lợi ích thu được. Ngược lại, các lý thuyết khoa học chính trị cho rằng con người đặt tham vọng chính trị lên trên lý trí, luôn cố gắng khẳng định mình cả trong công việc và cuộc sống cá nhân với nỗ lực tối đa hóa quyền lực của họ để kiểm soát những người khác. Xuất phát từ bản chất của các giả định cơ bản, các lý thuyết kinh tế và lý thuyết chính trị không thể so sánh trực tiếp, vì vậy nhà nghiên cứu không nên sử dụng các lý thuyết kinh tế nếu mục tiêu của họ là tìm hiểu cấu trúc quyền lực hay sự phân chia quyền lực trong một tổ chức. Tương tự như vậy, lý thuyết có thể có các giả định văn hóa ngầm (ví dụ, chúng áp dụng đối với văn hóa cá nhân hay tập thể), giả định thời gian (ví dụ, chúng áp dụng cho giai đoạn đầu hoặc giai đoạn cuối trong hành vi con người) và giả định không gian (ví dụ, chúng áp dụng đối với một số địa phương nhất định mà không áp dụng cho nơi khác). Để kiểm nghiệm và áp dụng đúng đắn một lý thuyết, tất cả các giả định tiềm ẩn của nó hình thành nên ranh giới của lý thuyết đó phải được nhìn nhận và hiểu rõ. Thật không may, trên thực tế các nhà lý thuyết hiếm khi phát biểu rõ ràng các giả định ẩn, dẫn đến việc áp dụng không đúng các lý thuyết với các vấn đề trong nghiên cứu.