Trang chủ Kinh tế và Kinh doanh Kinh tế chính trị tư sản tầm thường: Jean-Baptiste Say & Thomas Robert Malthus

Kinh tế chính trị tư sản tầm thường: Jean-Baptiste Say & Thomas Robert Malthus

by Ngo Thinh
Published: Last Updated on 569 views

Kinh tế chính trị tư sản tầm thường – Sự biến dạng của Kinh tế chính trị tư sản cổ điển nữa đầu thế kỷ XIX.

Đầu thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành. Sau nước Anh, phương thức sản xuất TBCN cũng được xác lập ở nhiều nước khác. Cùng với sự phát triển của xã hội tư bản và giai cấp tư sản, giai cấp vô sản cũng không ngừng lớn mạnh, phong trào công nhân cũng chuyển từ tự phát sang tự giác mang tính chất chính trị đe dọa sự tồn tại của CNTB. Việc xuất hiện những hình thái khác nhau của CNXH không tưởng tiểu biểu là Saint Simon, Phourier và R. Owen đã phê phán kịch liệt XHTB gây tiếng vang lớn trong giai cấp công nhân. Giai cấp tư sản cần có một lý luận để chống lại CNXH không tưởng và những trào lưu tư tưởng lúc bấy giờ để bảo vệ CNTB. Trước bối cảnh đó, Kinh tế chính trị tư sản tầm thường xuất hiện.

Kinh tế chính trị tư sản cổ điển ra đời trong giai đoạn phát triển của CNTB, khi đó mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản chưa gay gắt, vì vậy việc các nhà kinh tế cổ điển nghiên cứu một cách vô tư, khách quan các vấn đề kinh tế càng có tác dụng chống phong kiến mở đường cho sự ra đời của CNTB, những kết luận khoa học của Kinh tế chính trị tư sản cổ điển là phù hợp với quy luật phát triển của CNTB.

Nhưng khi CNTB phát triển cao làm cho mâu thuẫn xã hội thêm sâu sắc thì việc nghiên cứu kinh tế một cách khách quan tất yếu dẫn đến thừa nhận mâu thuẫn giai cấp xã hội. Do đó các nhà Kinh tế chính trị tư sản tầm thường đã tìm mọi cách bênh vực CNTB, ra sức tô vẽ cho CNTB. Vì vậy trong phương pháp nghiên cứu của họ thường chỉ nghiên cứu những hiện tượng bề ngoài, không nghiên cứu bản chất bên trong, tìm những luận cứ “dễ chịu” cho giai cấp tư sản, bắt khoa học phục vụ cho ý đồ có sẵn. Kinh tế chính trị cổ điển với phương pháp duy vật (tuy còn siêu hình), xem xét khách quan các hiện tượng dưới hình thức vốn có của nó, lấy sản xuất làm đối tượng nghiên cứu, vạch ra quy luật vận động của nền sản xuất, thì Kinh tế chính trị tư sản tầm thường lại duy tâm chủ quan, xuất phát từ chỗ bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản, biện hộ cho CNTB một cách có ý thức.

Kinh tế chính trị tư sản tầm thường đã có mầm móng trước đó, nhưng nó biểu hiện rõ nét nhất là đầu thế kỷ XVIII, phát triển mạnh nhất là ở Anh và ở Pháp với 2 nhà kinh tế tiêu biểu là Jean Baptish Say và Thomas Robert Malthus.

1. Học thuyết kinh tế của J. B. Say

Jean-Baptiste Say (1766 – 1832)

Jean-Baptiste Say (1766 – 1832)

Jean-Baptiste Say (1766 – 1832) là nhà kinh tế học người Pháp, xuất thân từ một gia đình đại thương nhân ở thành phố Lyon, bản thân đã từng tham gia công việc kinh doanh là giáo sư kinh tế của nhiều trường đại học ở Pháp.

Tác phẩm chủ yếu của ông là: “Vấn đáp kinh tế chính trị” (1817) và “Tập bài giảng kinh tế chính trị” (1828-1832).

Tư tưởng cơ bản trong tác phẩm của J. B. Say là ông cho rằng khoa học kinh tế chính trị không phải là chính trị và phải được tách ra khỏi yếu tố chính trị-xã hội. Đối với J. B Say, kinh tế học là môn học của những định luật chi phối việc sản xuất, phân phối và tiêu dùng của cải, nó gần với khoa vật lý vì đều dựa trên sự quan sát vô tư và khách quan. Sự thật, ông muốn xóa bỏ yếu tố giai cấp và xã hội trong kinh tế chính trị và không thừa nhận mâu thuẫn vốn có trong XHTB.

Phương pháp nghiên cứu của ông còn mang tính chất siêu hình, nó biểu hiện ở việc ông không biết tính chất lịch sử của các phạm trù kinh tế. Khi xét đến nhân tố sản xuất, phân phối, tiêu dùng, ông cô lập quá trình đó, không thấy mối quan hệ bên trong giữa chúng. Các Mác nói: “Adam Smith chưa biết hàng hóa, nhưng đã bắt đầu từ phân công, còn J. B. Say lại bắt đầu từ phân phối”.

Một số lý luận kinh tế cơ bản trong học thuyết của J. B. Say:

– Học thuyết về tính hữu dụng:

J. B. Say đã đem “Thuyết về tính hữu dụng” đối lập với lý luận giá trị của D. Ricardo. Ông nói giá cả là thước đo của giá trị, còn giá trị là thước đo tính hữu dụng của vật phẩm. Ích lợi của vật phẩm càng nhiều thì giá trị của nó càng cao. Ông nói: “Sản xuất thì tạo ra tính hữu dụng, sự hữu dụng đó trở thành sự phục vụ, sản xuất không phải là cái gì khác mà là tạo ra sự phục vụ và ngược lại cái gì tạo ra sự phục vụ là sản xuất. Sản xuất tạo ra tính hữu dụng, còn tính hữu dụng truyền giá trị cho các vật. Bởi vậy không chỉ có lao động mới tạo ra giá trị mà cả tư bản và tự nhiên cũng tạo ra giá trị, cũng tạo ra sự phục vụ”.

Như vậy, ông đã đồng nhất giá trị sử dụng và giá trị, sản xuất vật chất nói chung và sản xuất TBCN nói riêng. Đây không phải là sáng kiến riêng của J. B. Say mà trước kia A. Xénophon đã từng nêu lên.

Trong một cuộc tranh luận, D. Ricardo đã hỏi J. B. Say rằng: Vàng có giá trị gấp 2000 lần sắt, vậy có phải vàng hữu dụng gấp 2000 lần sắt ? J. B. say không trả lời được. Vì thật ra sắt có nhiều công dụng, còn vàng chỉ có công dụng hạn chế mà thôi. J. B. say lại đưa ra định nghĩa khác: Giá trị hàng hóa là do giá trị các yếu tố cấu thành tạo nên chi phí để sản xuất hàng hóa đó. Về điểm nầy, Các Mác cho J. B. Say lẩn quẩn vì không biết giá trị là gì làm sao tính được giá trị các yếu tố cấu thành.

Ở chỗ khác, J. B. Say lại cho rằng: Giá trị của một vật khi chưa xác định thì là tùy tiện, không quy định được, nó chỉ xác định được trên thị trường, tức là được xác định trong trao đổi. Thước đo giá trị của vật phẩm là số lượng vật phẩm mà người khác đồng ý đưa ra để lấy vật đó. Nói cách khác, theo J. B. Say giá cả được quyết định bởi cung- cầu.

– Lý thuyết thực hiện, hay lý thuyết tiêu thụ:

Với lý thuyết nầy, J. B. Say chứng minh sự nhịp nhàng, không có khủng hoảng của nền sản xuất TBCN. Theo ông, đôi lúc người ta gặp khó khăn trong việc tiêu thụ một vài thứ hàng hóa nào đó, nguyên nhân là ở chỗ sản xuất của một ngành nào đó không đủ, cho nên ngành khác sản xuất thừa, nghĩa là ông chỉ thừa nhận sản xuất thừa bộ phận, còn trong xã hội không hề có khả năng sản xuất thừa vượt quá khả khả tuyệt đối của nhu cầu.

Theo ông, sản phẩm bao giờ cũng được trao đổi bằng sản phẩm, lợi ích chủ yếu của tất cả những người sản xuất hình như là trao đổi sản phẩm nầy lấy sản phẩm khác, tiền chỉ đóng vai trò không hơn, không kém, chúng chỉ đóng vai trò nhất thời, cuối cùng hàng hóa chỉ đổi lấy hàng hóa. Vì người ta chỉ có thể mua một hàng hóa nào đó bằng tiền nhận được do bán những hàng hóa khác.

J. B. Say còn cho rằng thị trường tiêu thụ các sản phẩm do bản thân sản xuất tạo ra. Nếu số lượng những người sản xuất càng nhiều thì việc tiêu thụ sản phẩm càng dễ dàng, nhiều vẻ và rộng rãi hơn. Từ đó J. B. Say rút ra kết luận: mỗi người sản xuất đều phải quan tâm đến tất cả mọi người.

Đối với khủng hoảng thương nghiệp hay những khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, J. B. say coi đó là hiện tượng nhất thời, nền sản xuất TBCN không liên quan gì đến những hiện tượng nhất thời đó. Ông gắn khủng hoảng thương nghiệp với những tác động của những biện pháp cưỡng bách thuần túy có tính chất bên ngoài (các tai họa thiên nhiên hay chính trị, lòng tham hay sự bất lực của chính phủ v.v…).

Một trong những kết luận của J. B. say trong thuyết tiêu thụ là việc nhập khẩu sản phẩm nước ngoài tạo điều kiện để bán sản phẩm trong nước. Ông chứng minh tác hại của thuế quan, bảo hộ và sự cần thiết phải từ bỏ nó.

– Lý luận về ba nhân tố sản xuất, ba nguồn thu nhập (Học thuyết phân phối của J. B. Say)

Dựa trên học thuyết về tính hữu dụng, J. B. Say giải thích các thu nhập trong XHTB. Theo ông, tham gia vào sản xuất có ba nhân tố: lao động, đất đai và tư bản. Mỗi nhân tố đều có công nhất định trong việc tạo ra của cải và giá trị, do đó đều nhận được một phần nhất định trong tổng thu nhập xã hội. Lao động thì nhận được tiền công, tư bản thì nhận được lợi nhuận, còn ruộng đất thì nhận được địa tô. Do đó, trong CNTB không hề có bóc lột, ông biện hộ cho sự tồn tại của phương thức sản xuất TBCN. J. B. say còn nói thời nguyên thủy cũng có hiện tượng nầy. Các Mác gọi đó là học thuyết “Tam vị nhất thể”.

– Học thuyết bù trừ (lý luận bồi thường):

B. Say cho rằng khi người ta áp dụng máy móc thì có dẫn đến thất nghiệp trong hiện tại, nhưng nó lại giúp cho sức sản xuất gia tăng với chi phí nhân công giảm bớt tương đối khiến cho giá sản phẩm hạ thấp cho phép người công nhân mua được nhiều hơn sản phẩm với số lương lĩnh được. Sức mua của công nhân gia tăng thì sẽ tạo áp lực với sức cung, nhờ đó sức sản xuất của nhiều ngành được kích thích phát triển. Cuối cùng sức sản xuất gia tăng thì số công nhân mất việc sẽ được thu dụng trở lại, công ăn, việc làm nhiều hơn. J. B. Say đưa ra ví dụ: Trước người ta dùng người thợ chép sách, sau đó phát minh ra máy in, lúc đầu làm cho người nầy thất nghiệp. Nhưng sau đó ngành nầy phát triển làm tăng nhu cầu công nhân gấp nhiều lần trước đây, thu hút việc làm nhiều hơn. Do đó trong xã hội sẽ có sự bù trừ, công nhân là người hưởng lợi.

– Về nhà nước:

Trung thành với lý tưởng của Adam Smith, J. B. Say quan niệm, nhà nước là một doanh nhân kém, do đó nhà nước càng không tham gia vào công việc kinh doanh được chừng nào càng hay, cố gắng giảm bớt kinh phí điều hành của nhà nước để giảm nhẹ thuế khóa đánh vào nhà sản xuất. J. B. Say còn chỉ rõ thêm rằng sự can thiệp của nhà nước càng thêm có hại khi đi từ lĩnh vực nông nghiệp sang công nghiệp, từ công nghiệp qua thương mại.

– Lý thuyết hòa hợp kinh tế:

J. B. Say cho rằng, mỗi người đều có lợi trong sự thịnh vượng của mọi người, một ngành nghề nào đó sẽ có lợi khi ngành nghề khác phát đạt, thành thị sẽ có lợi khi thôn quệ tiến bộ và ngược lại. Một dân tộc sẽ có lợi khi dân tộc khác thịnh vượng, việc nhập cảng ảnh hưởng tốt đến xuất cảng và ngược lại. Ông cũng là người đầu tiên phân biệt được khái niệm doanh nhân và nhà tư bản và cho rằng doanh nhân mới là linh hồn và là sức sống của toàn bộ guồng máy kinh tế.

2. Học thuyết kinh tế của Thomas Robert Malthus

Thomas Robert Malthus (1776-1834)

Thomas Robert Malthus (1776-1834)

Thomas Robert Malthus (1776-1834) là nhà kinh tế học người Anh, xuất thân từ một gia đình quý tộc, là mục sự đạo tin lành và giảng viên kinh tế ở một số trường trung học. Ông là người bảo vệ lợi ích của giai cấp quý tộc đã chuyển hướng theo phương thức kinh doanh TBCN. Nếu lợi ích của địa chủ nhất trí với lợi ích giai cấp quý tộc thì ông bảo vệ cả hai, còn nếu có mâu thuẫn thì ông đứng về phía quý tộc.

Ông viết nhiều tác phẩm như: “Nghiên cứu hậu quả của đạo luật lúa mì” (1814), “ Nghiên cứu về bản chất và sự phát triển của địa tô” (1815), “Những nguyên lý khoa kinh tế chính trị” (1820)…Trong đó tác phẩm nổi tiếng nhất là: “Thử bàn về nguyên lý nhân khẩu” (1789).

Nội dung học thuyết của T. R. Malthus:

– Quy luật nhân khẩu:

T. R. Malthus xuất phát từ những hiện tượng trong tự nhiên của động và thực vật là chúng có khả năng sinh nở vô hạn, nhưng thức ăn và chỗ ở thì lại có hạn, do đó những đơn vị thừa ra sẽ chết đi, thiên nhiên chỉ giử lại giới hạn trong thức ăn và chỗ ở hiện có. Con người cũng phải phục tùng những quy luật đó, vì nếu như không có sự trở ngại nào đối với việc sinh sôi, nẩy nở thì cứ 25 năm sau dân số sẽ tăng gấp đôi theo cấp số nhân, còn sự phát triển tư liệu sinh hoat thì vấp phải những giới hạn hết sức chật hẹp và chỉ tăng lên theo cấp số cộng. Ông đưa ra bảng so sánh sau đây:

Năm thứ 1 25 50 75 100 200 300
Nhân khẩu

Tư liệu sinh hoạt

1

1

2

2

4

3

8

4

16

5

256

9

4096

13

T. R. MalThus gọi khuynh hướng dân số sinh sôi, nảy nở vượt quá mức tư liệu sinh hoạt đó là quy luật nhân khẩu. Quy luật đó tác động không thay đổi và mạnh mẽ từ khi xã hội mới sinh ra. Dân cư thừa quá chỗ thức ăn dự trữ sẽ nghèo khổ và chết dần. Cho nên sự nghèo khổ và khốn cùng không phải ở chỗ do xã hội sinh ra mà do dân số tăng không tương ứng với tư liệu sinh hoạt. Bản chất của con người cũng như động vật là sinh sôi vô độ nên dẫn đến nghèo khổ, vì thế nhân dân phải tự buột tội chính bản thân mình, không có cuộc cách mạng nào có thể giúp đỡ họ được. Phương thức duy nhất là điều chỉnh mức tăng nhân khẩu ngang với mức tăng tư liệu sinh hoạt. Tuy nhiên khi đưa ra những biện pháp điều tiết thì ông lại dùng những lực lượng có tính chất phá hoại như: những thói hư, tật xấu, những điều bất hạnh đủ loại, chiến tranh, bệnh tật, dịch bệnh, đói rét v.v..Người nào rơi vào thế giới đã bị chiếm chỗ rồi, nếu cha mẹ không đủ sức nuôi, xã hội không sử dụng lao động của họ thì anh ta không có quyền đòi hỏi bất cứ điều gì, anh ta là “người thừa” trên trái đất. Trong bữa tiệc lớn của xã hội anh không có chỗ thì anh tự phải đi ra xa.

Những biện pháp trên của ông đã gây ra sự phẩn nộ chung về viễn cảnh đen tối mà ông mang lại. Vì vậy ông thay bằng biện pháp phòng ngừa việc sinh sôi, nảy nở quá mức như: khuyên người nghèo đừng nên kết hôn. Tuy nhiên ông tỏ ra nghi ngờ những giải pháp đó. Ngoài ra, theo ông cũng có thể dùng những biện pháp giáo dục để khuyến khích con người hướng về đời sống tâm linh, quan tâm đến những thú vui tinh thần xa lánh dục vọng. Nhưng theo ông phải để cho con người tự gánh chịu lấy số phận của mình, chứ không nên có biện pháp nâng đỡ cứu trợ vì điều đó chẳng khác nào như là khuyến khích những kẻ tội lỗi và đưa đến sự mất quân bình trong tự nhiên.

Quan điểm của T. R. Malthus gây ra sự tranh luận sôi nổi, người thì tán thành, người thì phản ứng gay gắt. Các Mác gọi cuốn “Bàn về nhân khẩu” của T.R. Malthus là một sự lăng mạ kinh tởm chống lại thiên nhiên và loài người. Thuyết “nhân khẩu” sai lầm trước hết về phương pháp, vì ta không thể áp đặt quy luật tự nhiên vào xã hội loài người. Loài vật sống dựa vào những gì mà thiên nhiên mang lại, còn con người biết sáng tạo, thậm chí làm thay đổi tự nhiên nữa. Sai lầm của T. R. Malthus là ông cho quy luật nhân khẩu tồn tại vĩnh viễn và thích ứng với mọi xã hội. Ngay cả trong CNTB có tình trạng nhân khẩu thừa tương đối chứ không phải tuyệt đối do cấu tạo hữu cơ tư bản ngày càng tăng. Trong khi công nhân bị vứt ra lề đường thì hàng hóa dư thừa không bán được phải đổ xuống biển mà người lao động không được hưởng.

T. R. Malthus dựa vào quy luật đất đai ngày càng giảm độ mầu mỡ để làm cơ sở lý luận của ông. Điều nầy đúng với những nước chậm phát triển, khoa học-kỹ thuật chưa cao. Còn trong thời đại ngày nay, con người có thể cải tạo đất để tăng độ phì nhiêu làm ra nhiều sản phẩm hơn nữa. Tất nhiên, chúng ta cũng không thể xem nhẹ tác động của dân số đối với sự phát triển kinh tế, nhất là đối với các nước nghèo.

– Lý luận về giá trị hàng hóa, lợi nhuận và những người thứ ba:

+ Về giá trị hàng hóa: T. R. Malthus đã lấy định nghĩa không khoa học của Adam Smith về giá trị, đồng thời phát triển thêm. Ông cho rằng giá trị là do lao động mà người ta mua được bằng một hàng hóa, nghĩa là ông đồng nhất giá trị với chi phí để sản xuất ra hàng hóa đó. Theo ông chi phí để sản xuất hàng hóa bao gồm chi phí lao động sống và lao động vật hóa, công với lợi nhuận của tư bản ứng trước. Như vậy ông đã phủ nhận vai trò đặc biệt của lao động với tư cách là nguồn gốc giá trị, còn lợi nhuận coi là yếu tố cấu thành của giá trị.

+ Lợi nhuận: từ định nghĩa trên, T. R .Malthus cho rằng lợi nhuận như là những khoản thặng ra ngoài số lao động đã chi phí để sản xuất ra hàng hóa đó, vì thế nó không phụ thuộc vào lao động, nó như một khoản cộng thêm khi bán. Thực chất quan niệm của ông cũng giống như các nhà Trọng thương về lợi nhuận chuyển nhượng.

Từ sự phân tích đó ông đi đến vấn đề thực hiện. Ai là người được hưởng khoản thặng dư đó? Ông đi đến lập luận: công nhân với số tiền công của mình chỉ có thể mua được phần sản phẩm mà họ sản xuất ra thôi. Lợi nhuận cũng không thể xuất hiện trong việc trao đổi giữa các nhà tư bản do họ làm giàu bằng cách lừa gạt lẫn nhau. Như vậy, trong xã hội chỉ có nhà tư bản thì quá trình làm tăng thêm sẽ gặp giới hạn, sản xuất thừa sẽ xuất hiện, khủng hoảng sẽ xảy ra. Nhưng sản xuất TBCN vẫn phát triển đó là nhờ những tầng lớp: địa chủ, thầy tu, tôi tớ, các quan chức, binh lính v.v…Những người nầy chỉ tiêu dùng chứ không sản xuất. Tích lũy của nhà tư bản càng lớn thì tầng lớp người không sản xuất ngày càng sống xa hoa, hoang phí. Họ phải hy sinh lợi ích của mình đi để cứu lấy CNTB.

Các Mác phê phán rằng: “Anh chỉ mua mà không bán, nhưng trước đó anh chỉ thu mà không bỏ ra tí gì. Giả sử anh có bị thiệt thì người ta chỉ lấy đi một phần mà anh đã đi ăn cắp”.

5/5 - (1 bình chọn)

Có thể bạn quan tâm

123123

Lytuong.net – Contact: admin@lytuong.net