Trang chủ Địa lý kinh tế và xã hội Cơ cấu kinh tế là gì? Khái niệm, nhân tố ảnh hưởng và Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Cơ cấu kinh tế là gì? Khái niệm, nhân tố ảnh hưởng và Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

by Ngo Thinh
Published: Last Updated on 615 views

1. Khái niệm, ý nghĩa cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Cơ cấu kinh tế là tập hợp các bộ phận hợp thành tổng thể nền kinh tế và mối tương quan tỷ lệ giữa các bộ phận hợp thành so với tổng thể.

Các bộ phận hợp thành nền kinh tế rất đa dạng, có thể bao gồm các ngành kinh tế, các cùng lãnh thổ hay các thành phần kinh tế. Vì vậy, để xem xét cơ cấu của nền kinh tế người ta thường đứng ở nhiều phương diện, như cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ và cơ cấu kinh tế theo các thành phần kinh tế.

1.1. Cơ cấu kinh tế theo ngành

Cơ cấu kinh tế theo ngành là cơ cấu kinh tế trong đó mỗi bộ phận hợp thành là một ngành hay một nhóm ngành kinh tế. Nếu đứng trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế để xem xét thì cơ cấu kinh tế ngành bao gồm 3 nhóm ngành chính: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.

Còn trong phạm vi từng nhóm ngành có thể phân chia thành các ngành chuyên môn hoá ở những mức độ khác nhau. Cụ thể, nhóm ngành nông nghiệp có thể phân chia thành các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản; nhóm ngành công nghiệp chia thành các ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, công nghiệp sửa chữa, xây dựng; nhóm ngành dịch vụ có thể chia thành các ngành thương mại, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, du lịch, tài chính, ngân hàng. Từng ngành trên lại có thể được chia tiếp thành các ngành chuyên môn hoá hẹp hơn. Sự phân chia các ngành kinh tế thành các ngành chuyên môn hoá hẹp phụ thuộc vào trình độ phát triển của phân công lao động xã hội.

Cơ cấu kinh tế theo ngành là tiêu chuẩn cơ bản phản ánh trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia. Vì vậy, trong quá trình phát triển các nước đang phát triển đặc biệt quan tâm đến xây dựng chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, coi đó là điều kiện tiền đề, cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế.

1.2. Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ

Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ là cơ cấu kinh tế mà mỗi bộ phận hợp thành là một lãnh thổ đất nước. Việc phân chia các vùng lãnh thổ của một quốc gia thường căn cứ vào vị trí địa lý, các điều kiện tự nhiên, những lợi thế và trình độ phát triển kinh tế – xã hội của vùng. Trong phạm vi của một nước, mỗi vùng có vị trí địa lý khác nhau, có những tiềm năng lợi thế khác nhau, có trình độ phát triển kinh tế – xã hội khác nhau, do đó có những thuận lợi cũng như khó k hăn khác nhau trong phát triển kinh tế, đồng thời giữa các vùng lãnh thổ lại có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau và có sự liên kết với nhau trong quá trình phát triển.

Nghiên cứu cơ cấu kinh tế theo vùng có ý nghĩa quan trọng trong việc khai thác các tiềm năng lợi thế phát triển kinh tế của vùng lãnh thổ, trong việc định hướng phát triển kinh tế, xã hội vùng cũng như xác định vai trò của từng vùng trong phát triển kinh tế đất nước.

1.3. Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế

Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế là cơ cấu kinh tế mà mỗi bộ phận hợp thành là một thành phần kinh tế. Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế có thể được xem xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, hay theo từng ngành kinh tế, từng vùng lãnh thổ. Mục đích của việc nghiên cứu cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế là để đánh giá vị trí vai trò của từng phần kinh tế trong phát triển đất nước cũng như từng ngành kinh tế, từng vùng lãnh thổ.

Xem thêm: Nền kinh tế nhiều thành phần là gì? Tính tất yếu khách quan

Ba loại hình cơ cấu kinh tế trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình phát triển kinh tế. Khi nói đến việc xây dựng cơ cấu kinh tế ngành thực chất là để xác định nền kinh tế hay từng ngành kinh tế, từng vùng lãnh thổ đi vào sản xuất những loại sản phẩm gì. Trên cơ sở các ngành, các sản phẩm đã lựa chọn cần bố trí sản xuất hợp lý theo lãnh thổ (quy hoạch sản xuất) và có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện hay có sự ưu đãi đối với các thành phần kinh tế trong đầu tư phát triển các ngành, các sản phẩm đã lựa chọn. Hay khi xác định cơ cấu kinh tế của từng vùng lãnh thổ chính là sự biểu hiện của cơ cấu kinh tế theo ngành và theo thành phần kinh tế theo không gian lãnh thổ.

Cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Nó không cố định mà luôn luôn biến đổi, chuyển dịch phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội, với sự phát triển của khoa học và công nghệ cũng như sự biến động của nhu cầu thị trường trong từng thời kỳ.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình tác động của con người làm thay đổi các bộ phận cấu thành tổng thể nền kinh tế và mối tương quan tỷ lệ giữa các bộ phận cấu thành so với tổng thể.

Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nền kinh tế nói chung hay của từng vùng, từng địa phương, có thể diễn ra theo nhiều xu hướng khác nhau. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn gắn với nhu cầu thị trường, với chu kỳ sống của từng loại sản phẩm. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mỗi quốc gia, hay mỗi một ngành kinh tế, hay mỗi vùng địa phương có thể đưa vào cơ cấu kinh tế những ngành mới (sản phẩm, dịch vụ mới) hay có thể loại ra khỏi cơ cấu kinh tế những ngành (những sản phẩm) không còn phù hợp, hoặc có thể chuyển dịch theo hướng tăng hay giảm tỷ trọng của một ngành (sản phẩm) nào đó.

2. Nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Cơ cấu kinh tế ở nước ta đang chuyển dịch theo hướng chuyển từ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá.

Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng thành các nhóm nhân tố sau:

2.1. Nhóm nhân tố kinh tế

Bao gồm nhiều nhân tố khác nhau, nhưng ở đây chỉ nghiên cứu sự ảnh hưởng của một số nhân tố như: nhân tố thị trường (thị trường các yếu tố đầu vào, thị trường đầu ra – tiêu thụ sản phẩm, trình độ phát triển của các ngành kinh tế có liên quan và hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống kết cấu hạ tầng).

– Nhân tố thị trường:

Sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc trực tiếp và rất lớn vào thị trường các yếu tố đầu vào như: thị trường vốn, vật tư thiết bị, sức lao động, khoa học công nghệ. Thị trường đầu vào phát triển sẽ đảm bảo cung ứng kịp thời, đầy đủ với chất lượng tốt, giá cả hợp lý các yếu tố cần thiết của quá trình sản xuất, kinh doanh. Việc thay đổi quy mô sản xuất, cơ cấu mặt hàng trong từng ngành, từng doanh nghiệp phụ thuộc trực tiếp ở việc đảm bảo các yếu tố đầu vào (Mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp có yêu cầu về vật tư, thiết bị, các dịch vụ kỹ thuật, chất lượng lao động khác nhau). Vì vậy, khi xây dựng chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải xem xét khả năng đáp ứng các yếu tố đầu vào trên thị trường. Cần phân tích, đánh giá khách quan, có căn cứ các nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào có liên quan đến thực hiện cơ cấu kinh tế. Trên cơ sở phân tích, đánh giá các nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào để lựa chọn nguồn cung cấp có lợi nhất. Mặt khác, qua phân tích, đánh giá các nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào phải chỉ ra được những khó khăn, hạn chế của thị trường các yếu tố đầu vào để chủ động đối phó và có giải pháp thích hợp.

Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay không phải mọi yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, kinh doanh đều được đảm bảo thông qua hệ thống thị trường. Một mặt, do hệ thống thị trường đầu vào chưa được xây dựng và vận hành đồng bộ, mặt khác, việc đáp ứng các yếu tố đầu vào còn nhiều bất cập (chất lượng một số yếu tố chưa đảm bảo, giá cả chưa hợp lý …) nên các ngành, các địa phương và doanh nghiệp có thể tự do lấy một số hoặc một phần các yếu tố đầu vào. Vì vậy, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần đánh giá khả năng của bản thân từng ngành, từng doanh nghiệp trong việc đảm bảo các yếu tố đầu vào, như khả năng về vốn, khả năng tự đào tạo nhân lực, khả năng tự đổi mới khoa học và công nghệ, khả năng tự xây dựng vùng nguyên liệu .v.v…

Như vậy, khi phân tích nhân tố thị trường các yếu tố đầu vào không chỉ dựa vào khả năng cung ứng các yếu tố sản xuất trên thị trường mà còn xem xét khả năng của chính bản thân từng ngành, từng doanh nghiệp trong việc đáp ứng các nguồn lực cho quá trình sản xuất.

Nếu thị trường các yếu tố đầu vào có vai trò quan trọng trong việc đáp ứng các yếu tố cần thiết để thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thì thị trường tiêu thụ sản phẩm lại có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của quá trình đó. Nói đến thị trường tiêu thụ sản phẩm là nói đến trình độ và mức độ nhu cầu của xã hội đối với sản phẩm, dịch vụ của các ngành kinh tế, Nhu cầu vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế, tác động mạnh mẽ đến xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chính nhu cầu, cơ cấu nhu cầu và xu thế vận động của chúng đặt ra những mục tiêu cho việc xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Nghiên cứu nhân tố thị trường tiêu thụ sản phẩm đòi hỏi các ngành, các doanh nghiệp phải nắm bắt kịp thời nhu cầu thị trường (trong nước và quốc tế), xử lý nhanh các thông tin về thị trường để làm căn cứ cho việc xác định mô hình chuyển đổi cơ cấu ngành phù hợp. Khi thị trường tiêu thụ được mở rộng và ổn định sẽ là cơ sở để các ngành, các doanh nghiệp có chiến lược đầu tư lâu dài cho những sản phẩm mà thị trường có nhu cầu, từ đó có điều kiện để đầu tư mở rộng sản xuất. Có thể nói trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế chiến thắng sẽ giành cho ai nắm bắt kịp thời các thông tin về thị trường và khả năng chiếm lĩnh được thị trường.

– Cơ cấu kinh tế còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của các ngành liên quan cũng như cơ sở vật chất – kỹ thuật của nền kinh tế (nhất là kết cấu hạ tầng kinh tế).

Trong hệ thống kinh tế quốc dân các ngành, các lĩnh vực có mối quan hệ mật thiết và phụ thuộc lẫn nhau, là điều kiện cho nhau phát triển. Hay nói cách khác không một ngành kinh tế nào tồn tại độc lập. Vì vậy, khi xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một ngành nào đó phải xem xét các ngành có liên quan, nhất là những ngành có tác động trực tiếp. Chẳng hạn, khi chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng khai thác lợi thế của từng vùng cần xem xét trình độ phát triển của các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất phục vụ nông nghiệp, công nghiệp chế biến, bảo quản; trình độ phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng như: giao thông, điện, thông tin … và trình độ phát triển của các ngành dịch vụ. v.v…

Nghiên cứu nhân tố này đòi hỏi khi xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải nghiên cứu, đánh giá khách quan những ngành có liên quan cơ cấu kinh tế sẽ lựa chọn. Cần tránh hiện tượng quyết định cơ cấu kinh tế một cách cục bộ, không xem xét các ngành có liên quan, không đánh giá trình độ cơ sở hạ tầng. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, công nghiệp ở nước ta trong những năm qua đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm khi nghiên cứu nhân tố này. Chẳng hạn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng xuất khẩu, khai thác lợi thế từng vùng như phát triển các vùng chuyên canh về cà phê, chè, cao su, cây ăn quả … nhưng coi nhẹ đầu tư cho công nghiệp chế biến cũng như xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng nên dẫn đến tình trạng phần lớn phải xuất khẩu dưới dạng sơ chế hoặc chế biến nhưng chất lượng thấp. Nhiều vùng chuyển sang sản xuất hàng hoá nhưng đường sá giao thông không được đầu tư xây dựng, dẫn đến bế tắc trong tiêu thụ. Hoặc ngành công nghiệp chuyển dịch mạnh sang phát triển công nghiệp chế biến nhưng không quan tâm đến đầu tư cho xây dựng vùng nguyên liệu dẫn đến tình trạng nhiều cơ sở chế biến thiếu nguyên liệu, tranh chấp nguyên liệu giữa các nhà máy .v.v… Hoặc các ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài nhưng hệ thống giáo dục – đào tạo, đặc biệt đào tạo nghề và hệ thống các ngành dịch vụ chuyển dịch không đồng bộ .v.v…

2.2. Nhóm nhân tố xã hội

Như mật độ dân số, tháp dân số, số lượng, chất lượng nguồn lao động, tập quán, kinh nghiệm sản xuất, lịch sử truyền thống …

Đây cũng là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Nghiên cứu nhân tố này đòi hỏi phải xem xét các mặt có liên quan đến cơ cấu kinh tế như: mật độ dân số, tháp dân số có liên quan khả năng đảm bảo lực lượng lao động, đến nhu cầu tiêu dùng. Số lượng, chất lượng nguồn lao động liên quan đến lựa chọn ngành nghề và ngành nghề cần ưu tiên. Tập quán, kinh nghiệm hay lịch sử truyền thống là những vấn đề cần xem xét khi đưa vào cơ cấu kinh tế. Những ngành mới cần biết kết hợp tập quán, kinh nghiệm sản xuất của từng vùng, từng địa phương và phải biết phát huy, giữ gìn những tinh hoa văn hoá mà lịch sử để lại.

Đối với nước ta khi chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải biết kết hợp yếu tố truyền thống với công nghệ hiện đại. Bên cạnh lựa chọn những ngành công nghệ cao vẫn phải coi trọng ngành sử dụng nhiều lao động, phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ hiện đại nhưng không bỏ quên những ngành nghề thủ công truyền thống.

Cần nhấn mạnh yếu tố lịch sử, truyền thống cũng là nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.

Tuy nhiên, nhân tố xã hội cũng có những mặt hạn chế của nó đối với phát triển kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đó là sự bảo thủ, là những phong tục, tập quán lạc hậu đang là lực cản đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Hơn nữa nhân tố xã hội không thể thay đổi nhanh được mà phải có một quá trình lâu dài và chuyển biến từng bước một. Đây là vấn đề đòi hỏi phải nghiên cứu toàn diện các vấn đề có liên quan đến con người và phải có hệ thống giải pháp đồng bộ mới tạo ra chuyển biến tích cực về mặt xã hội được.

2.3. Nhóm nhân tố khoa học và công nghệ

Trình độ phát triển khoa học và công nghệ và khả năng ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh của mỗi nước có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến cơ cấu kinh tế. Khoa học và công nghệ phát triển, một mặt làm xuất hiện nhiều loại nhu cầu mới, tác động đến sự thay đổi số lượng tăng mức nhu cầu của ngành này hay ngành khác, làm thay đổi tốc độ phát triển của từng ngành. Mặt khác, khoa học và công nghệ còn tạo khả năng mở rộng ngành nghề, sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, phù hợp thị hiếu khách hàng. Khoa học và công nghệ phát triển còn cho phép các ngành kinh tế phát hiện và khai thác có hiệu quả các nguồn lực từ đó làm thay đổi số lượng ngành trong từng ngành sản xuất – kinh doanh.

2.4. Nhóm nhân tố tự nhiên

Bao gồm nguồn đất đai, nguồn tài nguyên khoáng sản, tài nguyên động thực vật, nguồn gốc, khí hậu, vị trí địa lý …

Đối với những nước đang phát triển, trình độ công nghiệp hoá còn thấp thì cơ cấu kinh tế nói chung còn phụ thuộc rất lớn vào nhân tố tự nhiên. Nhận thức nhân tố này đòi hỏi Nhà nước cũng như từng ngành kinh tế cần có chiến lược cơ cấu kinh tế (cơ cấu ngành và cơ cấu vùng lãnh thổ) phù hợp với lợi thế về tự nhiên. Chẳng hạn, trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta cần phát triển mạnh những ngành mà điều kiện tự nhiên có nhiều lợi thế, như lợi thế phát triển nông nghiệp nhiệt đới, phát triển các ngành công nghiệp khai thác, chế biến tài nguyên, nhất là những tài nguyên có trữ lượng lớn, phát triển mạnh ngành du lịch để khai thác lợi thế về danh lam thắng cảnh tự nhiên …

Mặt khác, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần quan tâm đến bảo vệ cải tạo môi trường tự nhiên.

2.5. Nhân tố về quan hệ kinh tế đối ngoại

Trình độ phát triển của mối quan hệ kinh tế đối ngoại có ảnh hưởng rất lớn đến cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia. Xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển đang là những cơ hội và thách thức lớn đối với mỗi nước trong quá trình phát triển.

Đối với nước ta là nước đi sau, nước đang phát triển thì quan hệ kinh tế đối ngoại đang tạo nhiều cơ hội cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế về mở rộng thị trường tiêu thụ, thu hút đầu tư từ nước ngoài, phát triển các hình thức liên doanh, liên kết trong sản xuất, kinh doanh.

Quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển thì quan hệ kinh tế đối ngoại đang tạo nhiều cơ hội cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế về mở rộng thị trường tiêu thụ, thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển các hình thức liên doanh, liên kết trong sản xuất, kinh doanh.

Tuy nhiên, quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng có những thách thức lớn đối với quá trình lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lý. Thách thức lớn khi hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là vị thế hàng hoá Việt Nam, khả năng cạnh tranh của các hàng hoá xuất khẩu trong việc tiếp cận, xâm nhập thị trường thế giới, trong việc đưa hàng hoá vào thị trường các nước, nhất là thị trường mới khai thác, trong việc thanh toán.v.v… Thách thức đó đòi hỏi Nhà nước cũng như mỗi ngành kinh tế, mỗi vùng địa phương và mỗi doanh nghiệp phaỉ biết chọn ngành nghề, sản phẩm mà mình có lợi thế và thị trường thế giới có nhu cầu và phải đầu tư đồng bộ để tạo ra những sản phẩm xuất khẩu mang thương hiệu Việt Nam có khả năng cạnh tranh cả ở thị trường trong nước và thị trường các nước trên thế giới. Đồng thời, từ phía Nhà nước cũng như các bộ, ngành liên quan cần có giải pháp đồng bộ để vượt qua những thách thức do hội nhập quốc tế.

2.6. Nhóm nhân tố về vai trò của Nhà nước

Vai trò của Nhà nước có ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau, như việc lựa chọn mục tiêu phát triển kinh tế; việc xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội cũng như chiến lược và quy hoạch phát triển từng ngành kinh tế, từng vùng lãnh thổ; việc xây dựng và ban hành hệ thống chính sách và luật pháp.v.v…

– Mục tiêu phát triển kinh tế, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội bao gồm cả chiến lược phát triển từng ngành kinh tế, từng vùng lãnh thổ là cơ sở để xây dựng định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế (cả cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu vùng lãnh thổ).

Nhận thức nhân tố này muốn khẳng định một vấn đề là các ngành kinh tế muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công đòi hỏi Nhà nước phải lựa chọn đúng mục tieu phát triển kinh tế và phải xây dựng được chiến lược phát triển kinh tế – xã hội có cơ sở khoa học. Tuy nhiên, cần thấy rằng mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội được xây dựng trong khoảng thời gian dài (đối với nước ta mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội được xây dựng đến năm 2010) nên trong quá trình thực hiện tất yếu sẽ phát sinh những vấn đề bất hợp lý. Vì vậy, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, một mặt phải dựa vào mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế – xã hôi, mặt khác qua quá trình thực hiện cần bổ sung và hoàn thiện mục tiêu và chiến lược.

– Hệ thống chính sách kinh tế và hệ thống luật pháp cũng có ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Các chính sách kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp được xây dựng đồng bộ có cơ sở khoa học sẽ có tác dụng định hướng phát triển, tạo điều kiện và khuyến khích các ngành, các doanh nghiệp phát triển có hiệu quả. Đồng thời chính sách còn có tác dụng điều tiết sản xuất và giúp các ngành, các doanh nghiệp giải quyết những khó khăn do cơ chế thị trường gây ra.

Ngược lại, nếu hệ thống chính sách kinh tế và luật pháp xây dựng không đồng bộ, hoặc chưa phù hợp với cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường ở nước ta sẽ có những tác động tiêu cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tê, hoặc có thể kìm hãm, hoặc gây thiệt hại cho các ngành, các doanh nghiệp khi thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Những nhân tố đó cần được nghiên cứu, xem xét một cách đầy đủ, đồng bộ trong quá trình xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhân tố ảnh hưởng không phải là những hiện tượng bất biến mà nó thường xuyên vận động, thay đổi theo chiều hướng khác nhau. Mỗi một nhân tố vừa có những ảnh hưởng tích cực nhưng lại vừa có những tác động tiêu cực hạn chế quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoặc có thể ở giai đoạn lịch sử này nhân tố đó có tác động tích cực, nhưng sang giai đoạn lịch sử khác nó lại trở thành lực cản, có ảnh hưởng tiêu cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế không tự nhiên mà có (ngoại trừ nhân tố tự nhiên. Tuy nhiên, con người có thể làm thay đổi nhân tố tự nhiên) mà là sản phẩm tổng hợp của sự vận động lịch sử, của quá trình phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia và quá trình phát triển của hệ thống kinh tế thế giới.

Nhận thức đầy đủ, có hệ thống các nhân tố ảnh hưởng sẽ là cơ sở quan trọng để xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mặt khác, để các nhân tố có tác động tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đến xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi Nhà nước cũng như các ngành, các địa phương và từng doanh nghiệp trong phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của mình để xây dựng và hoàn thiện các giải pháp nhằm tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công.

3. Những giải pháp chủ yếu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

3.1. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình lâu dài, đồng thời cũng hết sức khó khăn và phức tạp. Quá trình đó đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề quan trọng, nhưng trước hết, muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công đòi hỏi phải quán triệt những quan điểm cơ bản sau:

– Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường

Đây là quan điểm chi phối toàn bộ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường là mục tiêu cụ thể trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cũng như mục tiêu cụ thể của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Quan điểm nâng cao hiệu quả kinh tế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi các ngành, các doanh nghiệp phải biết lựa chọn sản phẩm (sản xuất cái gì ?), lựa chọn các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ sao cho có lợi nhất.

Tuy nhiên, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ xem xét hiệu quả kinh tế một cách đơn thuần (không chỉ là tối đa hoá lợi nhuận) mà còn xem xét cả về mặt hiệu quả xã hội. Nâng cao hiệu quả xã hội trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện ở việc lựa chọn ngành nghề có khả năng thu hút nhiều lao động (gắn với giải quyết việclàm), khuyến khích làm giàu nhưng phải gắn với chương trình xoá đói, giảm nghèo, với việc phòng chống các tệ nạn xã hội và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.

Chuyển dịch cơ cấu luôn luôn gắn liền với việc khai thác và sử dụng các nguồn lực( tài nguyên, khoa học công nghệ, nguồn lao động …) nên quá trình đó đòi hỏi phải quan tâm đến bảo vệ và cải thiện môi trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì vấn đề bảo vệ và cải thiện môi trường càng trở nên cấp bách – vấn đề không chỉ riêng nước ta mà là vấn đề có tính toàn cầu. Vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải xem xét một cách toàn diện từ việc quy hoạch khai thác tài nguyên, quy hoạch phát triển các ngành kinh tế đến việc lựa chọn công nghệ và việc đầu tư cho công nghệ xử lý chất thải (chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt) cũng như hàng loạt các vấn đề có liên quan đến môi trường khác.

Ba mặt hiệu quả kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường vừa có tính thống nhất, vừa có tính đối lập nhau.

Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp thường quan tâm đến hiệu quả kinh tế (quan tâm đến lợi nhuận thu được) còn vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường họ lại ít quan tâm, thậm chí bất chấp cả những hậu quả xã hội và môi trường.

Để vận dụng quan điểm này vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước (Từ Nhà nước trung ương đến các chính quyền địa phương), các ngành chức năng và mọi doanh nghiệp. Cần phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của Nhà nước trung ương, các chính quyền địa phương cũng như từng ngành, từng doanh nghiệp để cùng thực hiện mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

– Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn với việc khai thác triệt để các lợi thế so sánh của đất nước cũng như của từng vùng, từng địa phương

Nước ta có nhiều lợi thế trong phát triển kinh tế, như lợi thế về tự nhiên, lao động, lịch sử, truyền thống … Mỗi một vùng, địa phương lại có một lợi thế riêng.

Nhận thức quan điểm này vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải đánh giá khách quan, có cơ sở khoa học những lợi thế so sánh của đất nước cũng như từng vùng địa phương trong phát triển các ngành kinh tế. Đồng thời qua đánh giá chỉ ra được những khó khăn, hạn chế của từng vùng, địa phương trong phát triển kinh tế.

Khai thác lợi thế so sánh trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành các sản phẩm, các ngành mũi nhọn mà đất nước có khả năng, từ đó sẽ hình thành các vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn, đi vào chuyên môn hoá (vùng lúa gạo, cà phê, các khu công nghiệp khai thác khu du lịch …). tuy nhiên, nhiều lợi thế so sánh của đất nước cũng như từng vùng địa phương đang ở dạng tiềm năng. Những lợi thế đó có được khai thác hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, nhất là chiến lược và quy hoạch phát triển từng ngành cụ thể. Mặt khác, cần nhận thức rằng khai thác lợi thế so sánh trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế không có nghĩa là tập trung sản xuất những sản phẩm ta có, mà phải luônh hướng theo nhu cầu thị trường, phải nhạy bén trước nhu cầu thị trường. Kinh nghiệm phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt là kinh nghiệm xây dựng cơ cấu kinh tế nói chung và từng ngành sản xuất kinh doanh nói riêng cho thấy sự nhận thức không đầy đủ lợi thế đất nước trong xây dựng cơ cấu kinh tế đã gây ra nhiều hậu quả đáng tiếc. Chiến lược cơ cấu kinh tế theo hướng “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý” và chiến lược tự cân đối lương thực trên từng vùng, địa phương trong những năm 60, 70 của thế kỷ 20 đã khẳng định điều đó.

Trong hơn 15 năm đổi mới nền kinh tế đất nước, nhất là trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các ngành, địa phương đã quan tâm đầu tư khai thác lợi thế so sánh (thể hiện rõ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cơ cấu kinh tế nông thôn, cơ cấu kinh tế công nghiệp, dịch vụ …). Tuy nhiên, quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn với khai thác lợi thế so sánh của đất nước, cũng như từng vùng, địa phương chưa được nhận thức một cách đầy đủ, khoa học và chưa được thực hiện đồng bộ. Nhiều ngành đi vào khai thác lợi thế nhưng chưa có chiến lược và quy hoạch sản xuất có cơ sở khoa học, tình trạng tự phát trong khai thác lợi thế còn nhiều – Hoặc tập trung khai thác lợi thế nhưng không đầu tư đồng bộ, từ đó dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao, kém khả năng cạnh tranh với sản phẩm các nước khác.

Vận dụng quan điểm này vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ từ Nhà nước trung ương đến các ngành, địa phương và doanh nghiệp.

Chỉ trên cơ sở chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội nói chung và chiến lược, quy hoạch phát triển từng ngành được xây dựng cơ sở khoa học thì các ngành sản xuất – kinh doanh, các địa phương, doanh nghiệp mới xây dựng được cơ cấu kinh tế hợp lý. Trên cơ sở chiến lược và quy hoạch nếu không có sự đầu tư đồng bộ của Nhà nước, của các địa phương và doanh nghiệp thì lợi thế so sánh không thể khai thác có hiệu quả được.

– Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp khả năng của nền kinh tế và quan hệ kinh tế quốc tế hiện nay

Nhận thức quan điểm này trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải đánh giá khách quan khả năng của nền kinh tế, như khả năng các nguồn lực (tài nguyên, lao động, vốn khoa học và công nghệ) khả năng về quản lý, kinh doanh về thị trường … Đánh giá khả năng của nền kinh tế không chỉ đánh giá một cách chung chung, mà phải gắn với khả năng phát triển từng ngành kinh tế, từng vùng địa phương. Trên cơ sở đánh giá khả năng của nền kinh tế cần lựa chọn cơ cấu ngành phù hợp, trong đó cần xác định được thứ tự ưu tiên, quy mô phát triển của từng ngành, từng sản phẩm. Trong điều kiện nước ta hiện nay cần ưu tiên phát triển những ngành mà đất nước có nhiều khả năng, sản phẩm tạo ra có nhiều ưu thế trong cạnh tranh.

Tuy nhiên, trong hoàn cảnh quốc tế hiện nay nếu chỉ dựa vào khả năng của nền kinh tế để xây dựng cơ cấu kinh tế thì các ngành sản xuất, kinh doanh khó có thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy, cùng với việc xem xét khả năng của nền kinh tế, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần đánh giá đầy đủ khả năng hợp tác quốc tế. Hợp tác quốc tế sẽ giúp các ngành, các doanh nghiệp giải quyết những khó khăn của đất nước trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, như khó khăn về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường.

3.2. Giải pháp tạo điều kiện và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Để tạo điều kiện và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau:

– Xây dựng và phát triển hệ thống thị trường phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Đây là giải pháp có ý nghĩa rất quyết định đến sự thành bại của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nói đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế là phải xác định được sản xuất cái gì (sản phẩm, dịch vụ gì), sản xuất ở đâu (vùng nào, địa phương, doanh nghiệp nào), sản xuất bằng cách nào (vốn, khoa học công nghệ, lao động) và sản xuất cho ai (sản phẩm, dịch vụ phải tiêu thụ đợc – phải có thị trường). Vì vậy, để quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công cần xây dựng đồng bộ hệ thống thị trường bao gồm hệ thống thị trường các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ.

Về phía Nhà nước cần tăng cường xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh. Mặt khác, Nhà nước cần đề cao vai trò kiểm tra, giám sát quá trình hoạt động của hệ thống thị trường, đảm bảo cho các ngành, các doanh nghiệp tiếp nhận được các yếu tố đầu vào kịp thời có chất lượng, giá cả hợp lý, đồng thời tiêu thụ sản phẩm có lợi.

Về phía các ngành, doanh nghiệp cần chủ động tiếp cận thị trường, tăng cường quan hệ liên kết trong việc cung ứng các yếu tố đầu vào và tiêu thụ sản phẩm. Cần chủ động tìm hiểu các đối tác trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào và nắm bắt nhu cầu thị trường (trong và ngoài nước) để có cơ sở cho việc định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng và phát triển hệ thống thị trường phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là “sản xuất cái mà thị trường cần, đồng thời tìm mọi cách bán cái ta có”. Các ngành, các doanh nghiệp không thể ngồi chờ khách đến mua hàng mà cần chủ động tìm kiếm khách hàng.

Đẩy mạnh xây dựng và phát triển hệ thống thị trường một mặt giúp các ngành, các doanh nghiệp có điều kiện thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đạt hiệu quả, mặt khác qua thị trường lại giúp các ngành, các doanh nghiệp điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý.

– Đầu tư đồng bộ cho phát triển khoa học và công nghệ phù hợp quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ là để các ngành, các doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm, dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường, nhất là những ngành sản xuất cho xuất khẩu. Cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quá trình lựa chọn ngành nghề, sản phẩm là quá trình lựa chọn công nghệ. Nếu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển các ngành thu hút nhiều lao động, những ngành có lợi thế về tài nguyên mà xem nhẹ đầu tư phát triển và áp dụng khoa học công nghệ hiện đại thì những lợi thế đó sẽ nhanh chóng trở thành bất lợi thế.

Kinh nghiệm thành công cũng như không thành công của nhiều nước và ở nước ta trong chuyển dịch cơ cấu đều khẳng định muốn các ngành, các sản phẩm được lựa chọn có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế cạnh tranh phải coi trọng đầu tư cho khoa học và công nghệ. Nguyên nhân chủ yếu làm cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam (kể cả sản phẩm công nghiệp và nông, lâm, ngư nghiệp) kém khả năng cạnh tranh là do chưa coi trọng đầu tư phát triển khoa học công nghệ vào các khâu có liên quan đến quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản …. Vì thế sản phẩm xuất khẩu nước ta có chất lượng thấp, giá thành cao, mẫu mã kém phong phú so với sản phẩm các nước trong khu vực.

– Đào tạo, đào tạo lại đội ngũ lao động phù hợp yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ xuất hiện những ngành nghề mới hoặc hiện đại hoá những ngành nghề đã có nên tất yếu phải đào tạo, đào tạo lại đội ngũ lao động. Đối với nước ta vấn đề này lại càng cấp thiết. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động phải gắn với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong từng ngành, từng vùng lãnh thổ. Đào tạo, đào tạo lại lao động vừa quan tâm đào tạo đội ngũ lao động phục vụ ngay cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế (nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn) vừa chuẩn bị cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cũng như chiến lược phát triển từng ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.

– Tăng cường vai trò của Nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Để tạo điều kiện và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nhà nước cần tăng cường vai trò quản lý trong các mặt sau đây:

+ Xây dựng chiến lược phát triển từng ngành kinh tế trong đó cần tập trung xây dựng chiến lược phát triển những ngành mũi nhọn, những ngành có lợi thế xuất khẩu (chiến lược sản xuất lúa, gạo, cà phê, chè, ô tô, xe máy, điện năng, dầu khí, du lịch …). Chiến lược phát triển từng ngành kinh tế là cơ sở để từng ngành xác định, định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. (Lựa chọn ngành nghề, quy mô sản xuất).

+ Quy hoạch phát triển các ngành phù hợp chiến lược đã xây dựng.

Quy hoạch phát triển các ngành là để biến chiến lược phát triển thành hiện thực. Quy hoạch phát triển các ngành chỉ ra được quy mô phát triển của từng ngành (Quy mô sản xuất lúa gạo, chè, cà phê, xi măng …) phù hợp mục tiêu chiến lược và sự biến động của nhu cầu thị trường. Mặt khác, quy hoạch phải chỉ ra được việc bố trí sản xuất của từng ngành (từng loại sản phẩm) theo vùng lãnh thổ. Bố trí sản xấut ở đâu phải phù hợp lợi thế phát triển của từng ngành và phải có tính khả thi. Trong quy hoạch bố trí sản xuất phải xác định được quy mô đất đai phục vụ cho phát triển ngành, sản phẩm đã xác định (quy mô các vùng chè, cà phê, lúa … quy mô các khu công nghiệp khu chế xuất …)

Quy hoạch phát triển các ngành có cơ sở khoa học sẽ tạo điều kiện cho ngành phát triển ổn định, tránh tình trạng phát triển tràn lan, phát triển tự phát trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

+ Xây dựng đồng bộ các chính sách vĩ mô và hệ thống luật pháp phù hợp xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Hệ thống chính sách và luật pháp phải được hình thành đồng bộ phù hợp với sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, với xu hướng mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Hệ thống chính sách và luật pháp phải tạo điều kiện và khuyến khích các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư (kể cả trong và ngoài nước) mạnh dạn đầu tư phát triển các ngành còn nhiều tiềm năng, lợi thế. Đồng thời hệ thống chính sách và luật pháp phải đảm bảo cho mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trong phát triển kinh tế. Chẳng hạn hiện nay một số chính sách và luật pháp còn có sự phân biệt đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài về chế độ ưu đãi, về giá các loại dịch vụ. Về nguyên tắc tất cả các thành phần kinh tế (không kể kinh tế nhà nước hay kinh tế tư nhân, hay kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam đều theo những chính sách và luật pháp như nhau.

(Nguồn tài liệu: Giáo trình Kinh tế phát triển, Trường cao đẳng nghề Nam Định)

5/5 - (1 bình chọn)

Có thể bạn quan tâm

123123

Lytuong.net – Contact: [email protected]