I. Khái niệm Di sản văn hóa phi vật thể
1. Di sản văn hóa phi vật thể là gì?
Theo Công ước Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2003 và Việt Nam cam kết thực hiện từ ngày 20 tháng 9 năm 2005, di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là “các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khá, di sản văn hóa phi vật thể được các cộng đồng và các nhóm người không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người”.
Tại Điều 4, Mục 1, Văn bản hợp nhất số 10/VBHN-VPQH, ngày 23 tháng 7 năm 2013, Luật Di sản văn hóa do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành, di sản văn hóa phi vật thể là “sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác”.
2. Các hình thức biểu hiện của di sản văn hóa phi vật thể
- Các truyền thống và biểu đạt truyền khẩu, trong đó ngôn ngữ là phương tiện của di sản văn hóa phi vật thể;
- Nghệ thuật trình diễn;
- Tập quán xã hội, tín người và các lễ hội;
- Tri thức và tập quán liên quan đến tự nhiên và vũ trụ;
- Nghề thủ công truyền thống.
3. Các đặc trưng chung của di sản văn hóa phi vật thể
Các yếu tố truyền thống và đương đại cùng tồn tại song song: Di sản văn hóa phi vật thể không chỉ đại diện cho những truyền thống kế thừa từ quá khứ mà bao gồm cả những thực hành đương đại, ở cả vùng nông thôn và đô thị, nơi mà các nhóm văn hóa đa dạng tham gia;
Tính toàn bộ: Các hình thức của di sản văn hóa phi vật thể, cho dù đến từ vùng quê lân cận, hay từ một thành phố ở bên kia trái đất, cho dù được tiếp nhận bởi các cộng đồng di cư và định cư ở một vùng đất khác, đều chia sẻ đặc tính chung là được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, được phát triển để thích ứng với môi trường, góp phần tạo cho chúng ta nhận thức về bản sắc và sự kế tục, kết nối quá khứ với hiện tại và tương Di sản văn hóa phi vật thể không hướng tới câu hỏi như liệu một số thực hành cụ thể chỉ thuộc riêng về một nền văn hóa hay không, mà nó góp phần gắn kết xã hội, khuyến khích ý thức về bản sắc và trách nhiệm mà nhờ đó các cá nhân cảm thấy mình là một phần của một hoặc nhiều cộng đồng khác nhau, và của toàn xã hội;
Tính đại diện: Di sản văn hóa phi vật thể không chỉ được coi là một sản phẩm văn hóa, trên cơ sở so sánh, vì tính độc quyền hoặc giá trị đặc biệt của nó, mà phát triển mạnh trên cơ sở cộng đồng, do những người có kiến thức về truyền thống, kỹ năng và phong tục truyền cho những thành viên khác trong cộng đồng, từ thế hệ này sang thế hệ khác, hoặc cho các cộng đồng khác;
Tính dựa vào cộng đồng: Di sản văn hóa phi vật thể chỉ có thể được coi là di sản khi được thừa nhận bởi chính cộng đồng, nhóm người hoặc các cá nhân – những người đã sáng tạo, duy trì và trao truyền di sản đó.
Tôn trọng các quyền con người.
II. Các di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam
Cho đến nay, Việt Nam đã có 12 DSVHPVT được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Để làm rõ quá trình giáo dục về DSVHPVT trong trường học hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, cuốn tài liệu sử dụng thông tin về 12 di sản này trong các ví dụ minh họa xuyên suốt tài liệu bởi 12 di sản này:
- Là những di sản nổi tiếng, là niềm tự hào của người Việt Nam;
- Có lượng thông tin, tài liệu phong phú làm cơ sở để giáo viên, học sinh tra cứu, tham khảo trong quá trình tìm hiểu và ứng dụng trong giảng dạy và học tập (Đây là lý do quan trọng bởi việc xây dựng bài giảng kết hợp giữa kiến thức và kỹ năng môn học với giáo dục về DSVNPVT cần có quá trình tìm hiểu về di sản trên thực địa. Trong khuôn khổ chương trình biên soạn tài liệu này, các tác giả không có điều kiện tiến hành nghiên cứu thực địa về di sản để xây dựng bài giảng minh họa. Do đó, các tư liệu nghiên cứu về 12 di sản này, vốn được thu thập trong quá trình đệ trình hồ sơ cho UNESCO, đảm bảo tính khoa học làm cơ sở cho việc biên soạn bài giảng tích hợp DSVHPVT hướng đến mục tiêu PTBV);
- Dễ thu hút học sinh, giúp học sinh hứng thú, chủ động, tích cực trong học tập;
- Là những ví dụ cụ thể mang tính tiêu biểu, tạo điều kiện để tài liệu có thể dễ dàng được tiếp cận không chỉ ở phạm vi quốc gia mà còn trên toàn cầu;
1. Nhã nhạc cung đình Huế
Địa phương: Loại âm nhạc trong cung đình Huế.
Nội dung tóm tắt: Nhã nhạc là một loại hình âm nhạc chính thống trong cung đình thời phong kiến với quy mô tổ chức chặt chẽ. Dàn nhạc dựa trên thang ngũ âm với sự đa dạng của các loại nhạc cụ: trống, phách, sáo, đàn huyền tử, đàn hồ cầm, đàn song vân, đàn tỳ bà, tam âm với các ca công và vũ công tạo nên một sân khấu thiêng liêng và mang tính bác học khó có dàn nhạc nào sánh nổi.
Nhã nhạc được trình diễn trong các dịp triều hội, tế lễ hoặc các sự kiện trọng đại như lễ đăng quan của nhà vua, tiếp đón sứ thần… tạo nên sự trang trọng cho các nghi lễ.
Theo sử sách Nhã nhạc ra đời vào triều Lý (1010 – 1225) và hoạt động một cách quy củ vào thời Lê (1427-1788). Đến thời nhà Nguyễn nhã nhạc cung đình Huế phát triển rực rỡ và đạt đến trình độ hoàn chỉnh nhất.
Giá trị cơ bản: Loại hình âm nhạc này rất phong phú về nội dung và tinh thần, được xem như một phương tiện liên lạc, hình thức thể hiện sự tôn kính đến các vị thần linh và bậc đế vương, trở thành một biểu tượng cho vương quyền về sự trường tồn, hưng thịnh của triều đại.
Ngoài ra, nhã nhạc còn phục vụ như một phương tiện cho việc truyền đạt những ý nghĩa mang tính triết lý và những khía cạnh về vũ trụ của người Việt Nam.
Thời gian được công nhận: Ngày 07/11/2003, nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.
2. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
Địa phương: Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng trên địa bàn 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông và Lâm Đồng và chủ nhân của loại hình văn hóa đặc sắc này là cư 17 dân tộc ít người ở Tây Nguyên.
Nội dung tóm tắt: Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân Tây Nguyên, như một phần không thể thiếu trong suốt vòng đời mỗi con người và trong hầu như tất cả các sự kiện quan trọng của cộng đồng: từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, lễ cưới xin, lễ tiễn đưa người chết, lễ đâm trâu trong ngày bỏ mả cho đến lễ cúng máng nước, lễ mừng lúa mới, lễ đóng cửa kho, lễ mừng nhà rông mới…
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên bao gồm các bộ phận cấu: cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng, những địa điểm tổ chức các lễ hội đó. Cồng chiêng có thể dùng đơn lẻ hoặc theo dàn, mỗi dàn thường có từ 2 đến 12 chiếc, đường kính dao động từ 25 đến 120 cm. Tùy theo từng nhóm dân tộc, cồng chiêng được đánh bằng dùi hoặc bằng tay, mỗi nhạc công đánh một chiếc. Từng thành viên trong dàn nhạc nhớ rõ từng tiết tấu của từng bài chiêng trong mỗi nghi lễ và kết hợp hài hòa với các nhạc công khác cùng chơi.
Giá trị cơ bản: Âm nhạc của cồng chiêng Tây Nguyên thể hiện trình độ điêu luyện của người chơi trong việc áp dụng những kỹ năng đánh chiêng và kỹ năng chế tác.
Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ; là cầu nối giữa con người, thần linh và thế giới siêu nhiên, chứa đựng bên trong mỗi chiếc chiêng, chiếc cồng là một vị thần.
Thời gian được công nhận: Ngày 25/11/2005, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác Di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.
3. Dân ca quan họ Bắc Ninh
Địa phương: Dân ca quan họ có nguồn gốc từ xứ Kinh Bắc, chủ yếu ở tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay.
Nội dung tóm tắt: Dân ca quan họ là một hình thức hát giao duyên, tồn tại trong môi trường văn hóa với những tập quán xã hội đặc thù, tập trung chủ yếu ở tỉnh Bắc Ninh. Những liền anh trong trang phục truyền thống khăn xếp, áo the; những liền chị duyên dáng trong bộ áo mớ ba, mớ bẩy, đầu đội nón quai thao. Họ cùng nhau hát đối những câu ca mộc mạc, đằm thắm, cách hát theo lối truyền thống không cần nhạc đệm. Hệ thống làn điệu và lời ca của dân ca Quan họ là vô cùng phong phú và bài bản, phản ánh các trạng thái tình cảm của người quan họ ở các cấp độ xa, gần, nông, sâu khác nhau. Những làn điệu dân ca quan họ được lưu truyền từ đời này sang đời khác và đã phát triển đến đỉnh cao vào khoảng giữa thế kỷ XVIII.
Giá trị cơ bản: Dân ca quan họ luôn được thực hành trong các hoạt động văn hóa, xã hội của cộng đồng được cộng đồng lưu giữ, trao truyền qua nhiều thế hệ, trở thành bản sắc của địa phương và lan tỏa trở thành không gian văn hóa đặc thù.
Giá trị của dân ca quan họ cổ truyền không chỉ ở những giai điệu đặc sắc, lời ca tinh tế, giàu triết lý, mà còn ở phong cách, trang phục lịch sự, trang nhã và những lề lối, tập quán đặc sắc kèm theo nó.
Thời gian được công nhận: Ngày 30/9/2009, dân ca quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
4. Ca trù
Địa phương: Ca trù hiện có ở 14 tinh, thành trong nước: Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Thành phố Hồ Chí Minh.
Nội dung tóm tắt: Ca Trù là loại hình diễn xướng bằng âm giai nhạc thính phòng, dùng nhiều thể văn chương như thể phú, thể truyện, thể ngâm nhưng thể văn chương phổ biến nhất là hát nói. Ca trù là sự phối hợp nhuần nhuyễn đỉnh cao giữa thi ca và âm nhạc, từng là loại ca trong cung đình được giới quý tộc và trí thức yêu thích.
Hát ca trù diễn ra trong 5 không gian chính: đình làng, đền thờ thần, nhà thờ tổ nghề, dinh thự và ca quán thính phòng. Cùng với đó là các hình thức riêng: hát thờ, hát chúc hỗ, hát tế tiên sư, hát thi và hát chơi. Tham gia biểu diễn ca trù có ít nhất 3 người: một đào nương hát theo lối nói và gõ phách lấy nhịp. Khi hát, đào nương không cần há to miệng, không đẩy mạnh hơi từ buồng phổi mà ém hơi trong cổ, ậm ự mà lời ca vẫn rõ ràng, tròn vành rõ chữ; một kép nam đệm đàn đáy cho người hát và một quan viên điểm trống chầu.
Giá trị cơ bản: Ca trù là một loại hình nghệ thuật có từ lâu đời, độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lý sống của người Việt.
Lời lẽ, ca từ của ca trù mang tính uyên bác, ít lời mà nhiều nghĩa, giàu chất thơ, mang nhiều cảm xúc, trầm ngâm, sâu lắng. Kỹ thuật hát rất tinh tế, công phu, đòi hỏi phải nắn nót, chau chuốt từng chữ.
Thời gian được công nhận: Ngày 01/10/2009, ca trù đã được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.
5. Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc
Địa phương: Hội Gióng có ở nhiều nơi vùng châu thổ Bắc Bộ, song có 2 hội Gióng tiêu biểu ở Hà Nội: hội Gióng ở đền Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm và hội Gióng ở đền Sóc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn.
Nội dung tóm tắt: Hội Gióng là lễ hội truyền thống tưởng nhớ và ca ngợi chiến công của người anh hùng Thánh Gióng, một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Hội Gióng ở đền Phù Đổng (xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm – nơi Thánh Gióng sinh ra) diễn ra từ ngày 7-9 tháng Tư Âm lịch. Hội Gióng ở đền Sóc (xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn nơi Thánh hóa, cưỡi ngựa về trời) diễn ra từ ngày 6-8 tháng Giêng Âm lịch. Các nghi lễ và hoạt động trong hội Gióng mô phỏng một cách sinh động và khoa học diễn biến các trận đấu của thánh Gióng và nhân dân Văn Lang với giặc Ân cùng việc sau khi dẹp tan quân giặc, ngài về núi Sóc rồi cưỡi ngựa bay lên trời, hóa thành một vị Thánh bất tử bảo hộ mùa màng, hòa bình cho đất nước, thịnh vượng cho muôn dân.
Giá trị cơ bản: Hội Gióng là một trong những lễ hội lớn nhất vùng châu thổ Bắc Bộ, tổ chức theo một nghi thức được quy định chặt chẽ, chuẩn bị hết sức công phu, không chỉ có sự tham gia đông đảo của dân làng quanh khu vực hai đền mà của nhân dân trên cả nước.
Giá trị nổi bật toàn cầu của hội Gióng chính là một hiện tượng văn hóa được bảo lưu, trao truyền khá liên tục và toàn vẹn qua nhiều thế hệ dù ở gần trung tâm thủ đô và trải qua nhiều biến động như chiến tranh hay sự xâm nhập và tiếp biến văn hóa.
Thời gian được công nhận: Ngày 16/11/2010, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc được vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
6. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
Địa phương: tại khu di tích lịch sử đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
Nội dung tóm tắt: Theo truyền thuyết, Hùng Vương là con của cha Lạc Long Quân – (giống Rồng) và mẹ Âu Cơ (giống Tiên), đã có công dựng lên nhà nước Văn Lang cổ đại, thuộc vùng đất Phú Thọ ngày Đối với cộng đồng các làng xung quanh đền Hùng, Hùng Vương còn là thần tổ gắn với nghề nông, dạy dân cày ruộng, cấy lúa, ban linh khí cho đất đai, nhà cửa, cây trồng, vật nuôi sinh sôi nảy nở, mùa màng bội thu. Với niềm tin thành kính này, từ hàng nghìn năm qua, hết thế hệ này qua thế hệ khác, người Việt ở vùng đất Tổ Phú Thọ, nơi có Đền Hùng linh thiêng và nhân dân trên khắp mọi miền của đất nước, cùng đông đảo người Việt Nam ở nước ngoài, đã sáng tạo, thực hành, vun đắp và lưu truyền Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương để thể hiện sự biết ơn với vị thủy tổ, mong Ngài phù hộ cho quốc thái dân an, vật thịnh, mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu.
Giá trị cơ bản: Biểu hiện tiêu biểu nhất cho Tín ngưỡng thờ cúng Hùng vương ở Phú Thọ là lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, được thực hiện vào ngày 10 tháng 3 Âm lịch hằng năm tại Khu di tích lịch sử Đền Hùng. Lễ giỗ Tổ Hùng Vương cũng được tổ chức trên khắp mọi miền của đất nước Việt Nam (Theo thống kê, trên cả nước hiện có 1.417 di tích có thờ cúng Hùng Vương và các nhân vật thời Vua Hùng).
Thời gian được công nhận: Ngày 06/12/2012, tín ngưỡng thờ cúng Hùng vương được UNESCO ghi danh vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
7. Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ
Địa phương: Thực hành ở 21 tỉnh ở miền Nam Việt Nam, gồm: An Giang, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bạc Liêu, Bến Tre, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Cà Mau, Cần Thơ, Đồng Nai, Đồng Tháp, Hậu Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Long An, Ninh Thuận, Sóc Trăng, Tây Ninh, Tiền Giang, Trà Vinh và Vĩnh Long; tập trung nhiều nhất ở Bạc Liêu, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh và Tiền Giang.
Nội dung tóm tắt: Bằng điệu đàn, tiếng hát, loại hình sinh hoạt văn hóa này gắn kết cộng đồng thông qua thực hành và sáng tạo nghệ thuật, trên cơ sở nhạc Lễ, nhạc Cung đình triều Nguyễn và âm nhạc dân gian miền Trung, miền Nam, nên vừa có tính bình dân, vừa mang tính bác học. Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ không ngừng được sáng tạo nhờ tính ngẫu hứng và sự biến hóa theo cảm xúc của người thực hành trên cơ sở của 20 bài gốc (bài Tổ) và 72 bản nhạc cổ. Nhạc cụ tham gia trình diễn bao gồm: đàn kìm, đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn bầu, đàn cò, sáo, tiêu, song loan và hai nhạc cụ của phương Tây (violon và guitar đã được “cải tiến: violon được lên dây quãng 4, còn guitar được khoét phím lõm, để tăng sự nhấn nhá trong điệu đàn).
Giá trị cơ bản: Những người thực hành Đờn ca tài tử Nam Bộ luôn tôn troṇ g , quý mến, học hỏi nhau tài nghệ, văn hóa ứng xử, đạo đức…, góp phần gắn kết cộng đồng, xã hội, cùng hướng tới giá trị “chân, thiện, mỹ”. Thông qua việc thực hành Đờn ca tài tử Nam Bộ, cộng đồng còn góp phần giới thiệu, bảo tồn và phát huy các tập quán xã hội khác liên quan, như: lễ hội, văn hóa truyền khẩu, nghề thủ công… Đối với người phương Nam, Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ là một loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu và là di sản văn hóa phi vật thể quý giá của cộng đồng.
Thời gian được công nhận: Ngày 05/12/2013, UNESCO chính thức công nhận Đờn ca tài tử Nam Bộ là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
8. Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh
Địa phương: Dân ca của người Việt ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, thuộc Bắc Trung bộ Việt Nam.
Nội dung tóm tắt: Ví, Giặm là hai lối hát dân ca không nhạc đệm được thực hành trong lao động và đời sống thường nhật: lúc ru con, khi làm ruộng, chèo thuyền, lúc dệt vải, xay lúa. Ví, Giặm có đặc tính địa phương về thang điệu, điệu thức, tiết tấu, giai điệu và giọng hát. Các kỹ năng hát đúng tiết tấu, cao độ, trường độ, luyến láy chủ yếu được trao truyền giữa các thế hệ bằng truyền khẩu, trực tiếp từ các nghệ nhân, đảm bảo thể hiện được giọng hát, ngữ điệu của phương ngữ Nghệ Tĩnh. Ca từ của Dân ca Ví, Giặm có nội dung đa dạng, miêu tả cuộc sống, phản ánh tập quán xã hội, lịch sử, tình yêu quê hương, đất nước, con người, tình yêu đôi lứa. Nhiều bài hát mang tính giáo dục sâu sắc: kính trọng cha mẹ, chung thủy, nghĩa tình, trung thực, góp phần gìn giữ các tập tục, truyền thống tốt đẹp trong ứng xử xã hội ở làng xã.
Giá trị cơ bản: Dân ca Ví, Giặm có đặc tính địa phương về thang điệu, điệu thức, tiết gắn bó mật thiết với đời sống người dân và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Về giá trị nghệ thuật, dân ca Ví, Giặm là loại hình độc đáo, phản ánh nhiều nét bản sắc văn hóa của địa phương, thể hiện tài năng, cốt cách của con người xứ Nghệ.
Thời gian được công nhận: Ngày 27/11/2014, Dân ca Ví, Giặm Nghệ tĩnh được UNESCO chính thức ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
9. Nghi lễ và trò chơi kéo co (Hồ sơ đa quốc gia)
Địa phương: Việt Nam, Hàn Quốc, Campuchia và Tại Việt Nam, nghi lễ và trò chơi kéo co tập trung ở vùng trung du, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung bộ với trung tâm là các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, thành phố Hà Nội và khu vực miền núi phía Bắc.
Nội dung tóm tắt: Nghi lễ và trò chơi kéo co được thực hành rộng rãi trong văn hóa trồng lúa ở nhiều nước Đông Á với ý nghĩa cầu cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu hay những tiên đoán liên quan đến sự thành công hay thất bại của nỗ lực trồng cấy. Kéo co phổ biến trong sinh hoạt của người Việt, bên cạnh đó cũng được thực hành thường xuyên trong văn hóa người Tày, Thái và Giáy (Lào Cai) – vốn là những cư dân trồng lúa sớm trong lịch sử.
Kéo co ngày nay được biết đến rộng rãi là một trò chơi cạnh tranh, nhưng bản chất là một phần của nghi thức cầu nguyện cho thu hoạch dồi dào và thúc đẩy sự thịnh vượng của cộng đồng thông qua sự hài hòa và đoàn kết giữa các thành viên. Nhìn chung, nghi lễ và trò chơi kéo co được thực hiện bởi hai đội, thường là phụ nữ chống lại nam giới, trong một không gian mở tại một trung tâm làng. Một đường thẳng được vẽ ở giữa khu vực cạnh tranh. Mỗi đội nắm giữ dây thừng có dải lụa buộc ở giữa, và trọng tài điều khiển trò chơi bằng cách hô to. Hai đội bắt đầu kéo sợi dây theo nhịp. Đội nào kéo được phần buộc dải lụa về phía mình là đội thắng cuộc.
Giá trị cơ bản: Ở Việt Nam, nghi lễ và trò chơi kéo co thường được tổ chức trong dịp lễ hội mùa xuân, đánh dấu sự khởi đầu của một chu kỳ nông nghiệp và bày tỏ mong muốn cho cây trồng bội thu. Đây là di sản mang dấu ấn đậm nét của nghi thức nông nghiệp, tượng trưng cho sức mạnh của các lực lượng tự nhiên tác động đến sự ấm no của đời sống con người.
Thời gian được công nhận: Ngày 02 tháng 12 năm 2015, UNESCO đã chính thức ghi danh Nghi lễ và trò chơi Kéo co ở Việt Nam, Campuchia, Hàn Quốc, Philippines vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
10. Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt
Địa phương: Phân bố ở nhiều địa phương như Hà Nội, Thanh Hóa, Lạng Sơn, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, Hòa Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang , Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế và Thành phố Hồ Chí Minh…
Nội dung tóm tắt: Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ là một hình thức thờ cúng người Mẹ hóa thân ở các miền trời, sông nước, rừng núi, được hình thành trên nền tảng của tín ngưỡng thờ Nữ thần. Người dân thờ cúng Thánh Mẫu Liễu Hạnh cùng với các vị Thánh Mẫu cai quản miền trời, rừng, nước, những nhân vật lịch sử hoặc huyền thoại có công với nước, với dân. Thông qua các yếu tố văn hóa dân gian như trang phục, âm nhạc, hát chầu văn, múa, diễn xướng dân gian trong lên đồng và lễ hội, người Việt thể hiện quan niệm của mình về lịch sử, di sản văn hóa, vai trò của giới và bản sắc tộc người.
Nghi lễ chính, trung tâm của Thực hành Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ là nghi lễ Lên đồng – được hiểu là một hình thức diễn xướng dân gian, thể hiện đức tin về sự giáng/nhập của các vị thần trong điện thần của Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ. Các giá đồng bao gồm hát văn, trang phục, múa thiêng được kế hợp một cách hài hòa, thể hiện sự giáng đồng của các vị thánh mang tính tâm linh và biểu tượng. Những người thực hành tin rằng, bằng hình thức diễn xướng này, họ có thể giao tiếp được với các đấng thần linh để gửi gắm, biểu đạt những mong muốn, khát vọng của mình thông qua các thầy đồng – người đóng vai trò trung gian giữa con người và thần linh.
Giá trị cơ bản: Di sản này góp phần quan trọng vào việc tạo ra sợi dây tinh thần liên kết các cộng đồng thực hành. Di sản này đề cao những điểm tương đồng văn hóa giữa các cộng đồng và các nhóm người tham gia vào việc thờ Mẫu, là sự kết hợp của Đạo giáo, Phật giáo và các tôn giáo khác. Khi di sản này này được chia sẻ bởi các nhóm dân tộc khác nhau ở Việt Nam, việc thực hành sẽ tăng cường đối thoại và thúc đẩy tôn trọng đa dạng văn hóa.; giúp cho việc sáng tạo, làm giàu vốn văn hóa thông qua các yếu tố nghệ thuật như trang phục, vũ đạo và âm nhạc đóng vai trò quan trọng;
Thời gian được công nhận: Ngày 01 tháng 12 năm 2016, di sản Thực hành Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ của người Việt đã chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
11. Hát Xoan Phú Thọ
Địa phương: Hát Xoan chủ yếu được thực hành ở tỉnh Phú Thọ và một phần tỉnh Vĩnh Phúc. Ở tỉnh Phú Thọ, hát Xoan tập trung ở xã Kim Đức và Phượng Lâu và một số phường xã khác ở thành phố Việt Trì; ngoài ra còn phổ biến ở các huyện, thị: Cẩm Khê, Đoan Hùng, Lâm Thao, Phù Ninh, Tam Nông, Tân Sơn, Thanh Ba, Thanh Sơn, Thanh Thủy, và thị trấn Phú Thọ.
Nội dung tóm tắt: Là di sản thuộc loại hình nghệ thuật trình diễn, Hát Xoan của tỉnh Phú Thọ bao gồm hát, múa, gõ trống và phách. Hát Xoan gắn liền với việc thờ cúng thần linh, thành hoàng và các vua Hùng, một tín ngưỡng bắt nguồn từ việc thực hành thờ cúng tổ tiên của người Việt. Những người lưu giữ và thực hành hình thành nên bốn phường Xoan, trong đó, Trùm nam và nữ đóng vai trò quan trọng nhất: họ giữ gìn các bài hát, lựa chọn đệ tử, truyền dạy phong cách hát, các tiết mục và tổ chức thực hành. Họ cũng tích cực giới thiệu và giảng dạy hát Xoan tại các phường Xoan và trong các câu lạc bộ. Là một nghệ thuật trình diễn cộng đồng, Hát Xoan nuôi dưỡng sự hiểu biết văn hoá, sự gắn kết cộng đồng và tôn trọng lẫn
Nghệ thuật trình diễn của Hát Xoan rất đơn giản, mộc mạc với sự kết hợp hài hòa giữa âm nhạc, thơ, vè và giọng điệu mang đậm dấu ấn thổ ngữ của địa phương vùng trung du Phú Thọ (dân ca). Lời ca trong Hát Xoan còn có sự kết hợp với các điệu múa đơn giản chủ yếu bằng đôi tay của các đào, kép đưa ra, thu vào, ngửa bàn tay, úp bàn tay, kết hợp với việc sử dụng các đạo cụ, như quạt, phách tre, nậm rượu… Di chuyển trong Hát Xoan bằng đôi chân chủ yếu theo hàng dọc hoặc hàng ngang và vòng tròn.
Giá tri cơ bản: Là một loại hình nghệ thuật biểu diễn dân gian kết hợp các yếu tố văn hóa, lịch sử và nghệ thuật độc đáo ở lời ca, giai điệu chứa đựng nhiều giá trị văn hóa được cộng đồng gìn giữ qua nhiều thế kỷ. Hình thức và nội dung Hát Xoan gắn với thiên nhiên, con người, đời sống sản xuất của tỉnh Phú Thọ và phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt. Qua bài hát và điệu nhảy, người dân bày tỏ long biết ơn đến các tổ tiên, các vị vua Hùng và cầu mong hạnh phúc, thịnh vượng, thời tiết thuận lợi và mùa màng bội Lời hát Xoan cũng chứa đựng tính giáo dục đạo đức, lối sống dành cho giới trẻ.
– Thời gian được công nhân: Hát Xoan Phú Thọ được công nhận danh hiệu Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp năm 2011. Ngày 08 tháng 12 năm 2017, di sản hát Xoan Phú Thọ đã chính thức được UNESCO đưa ra khỏi Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp và ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
12. Nghệ thuật Bài chòi Trung bộ
Địa phương: Khu vực Trung bộ, gồm các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Đà Nẵng.
Nội dung tóm tắt: Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ Việt Nam (ở các tỉnh) là một loại hình nghệ thuật đa dạng, kết hợp âm nhạc, thơ ca, diễn xuất, hội họa và văn học. Bài chòi có hai hình thức chính: “Chơi Bài chòi” và “Trình diễn Bài chòi”. Chơi Bài chòi liên quan đến một trò chơi thẻ bài trong chòi tre vào Tết Nguyên đán. Trong các buổi trình diễn của Bài chòi, anh chị Hiệu biểu diễn trên chiếu cói, hoặc di chuyển từ nơi này đến nơi khác hoặc trong những dịp riêng tư của các gia đình. Những người lưu giữ và thực hành nghệ thuật Bài chòi là các anh chị Hiệu, những nghệ nhân biểu diễn Bài chòi đơn lẻ và những nghệ nhân làm thẻ bài. Người trình diễn và gia đình họ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các hình thức thực hành bằng cách giảng dạy các bài bản, kỹ năng ca hát, kỹ thuật trình diễn và phương pháp làm thẻ bài cho các thế hệ trẻ. Cùng với cộng đồng, những người này đã thành lập gần 90 đội, nhóm và câu lạc bộ để luyện tập và truyền dạy Nghệ thuật Bài chòi, thu hút sự tham gia rộng rãi của cộng đồng. Hầu hết, nghệ nhân đều được học kỹ năng, kỹ thuật hô, hát Bài chòi trong gia đình, chủ yếu thông qua phương pháp truyền miệng. Tuy nhiên, một số nghệ nhân Bài chòi ngày nay cũng truyền dạy kiến thức và kỹ năng trong các hội, các câu lạc bộ và trường học.
Giá trị cơ bản: Nghệ thuật Bài chòi là một hình thức sinh hoạt văn hóa và giải trí trong cộng đồng làng xã. Các thành tố văn hóa nghệ thuật: thơ ca, âm nhạc, hội họa, ngôn ngữ, tập tục… trong nghệ thuật Bài chòi được chuyển tải một cách giản dị, tự nhiên, tạo sức hấp dẫn với công chúng, trở thành sinh hoạt văn hóa thiết yếu và phổ biến khắp miền Trung. Vì thế mà sinh hoạt Bài chòi trở thành môi trường thực hành và sáng tạo nghệ thuật, đồng thời cũng là nơi bảo tồn vốn văn nghệ dân gian, phong cách trình diễn và các giá trị văn hóa vùng miền.
Thời gian được công nhận: Ngày 07 tháng 12 năm 2017, di sản Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ Việt Nam đã chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Nguồn tài liệu: “Giáo dục di sản văn hóa phi vật thể trong trường phổ thông hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững”, là kết quả hợp tác giữa Trung tâm nghiên cứu quốc tế về di sản văn hóa phi vật thể ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương (IRCI), Bảo tàng dân tộc học Việt Nam (VME) và Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (VNIES)