1. Khái niệm cổ phiếu
– Cổ phiếu (Stocks) là chứng chỉ, hoặc bút toán ghi sổ, hoặc dữ liệu điện tử chứng nhận quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty cổ phần.
– Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và các lợi ích hợp pháp của người chủ sở hữu đối với một phần vốn của tổ chức phát hành. (Luật Chứng khoán của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 70/2006/QH11 ngày 29/6/2006).
Dù diễn đạt bằng cách nào thì chúng đều thống nhất với nhau về bản chất, đó là: Cổ phiếu là chứng cứ pháp lý xác nhận việc đầu tư vốn vào công ty cổ phần và khẳng định các quyền và lợi ích hợp pháp của người nắm giữ cổ phiếu là người chủ sở hữu một phần vốn của công ty cổ phần.
Cổ phiếu là quyền lực, người nắm giữ cổ phiếu được hưởng các quyền với tư cách là người chủ sở hữu công ty theo mức độ tương ứng với tỉ lệ cổ phiếu nắm giữ. Do vậy cổ phiếu còn được gọi là chứng khoán vốn.
* Phân biệt sự khác nhau giữa cổ phiếu và cổ phần
Vốn góp của công ty cổ phần hay doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là Cổ phần (share). Cổ phần phản ánh vốn (tư bản) thực tế của doanh nghiệp, dùng để xây dựng nhà xưởng, mua máy móc thiết bị hay nguyên liệu để sản xuất kinh doanh.
Cổ phiếu (stock) là bằng chứng xác nhận số cổ phần mà nhà đầu tư (cổ đông) đã mua và nắm giữ giống như hóa đơn mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, khác hóa đơn (không mua bán được), cổ phiếu có thể mua đi bán lại trên TTCK. Nền kinh tế tăng trưởng ổn định, tỉ lệ cổ tức cao và những tin tức về triển vọng phát triển của công ty cổ phần làm cho cổ phiếu tăng giá và ngược lại.
* Đặc điểm của cổ phiếu
- Cổ phiếu là chứng khoán vốn, xác nhận sự hùn vốn vào công ty cổ phần trên nguyên tắc lời ăn, lỗ chịu.
- Cổ phiếu không có kỳ hạn, tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty phát hành. Cổ phiếu chỉ được hoàn vốn một cách trực tiếp khi công ty cổ phần kết thúc thời hạn hoạt động hoặc bị phá sản. Thông thường cổ phiếu được hoàn vốn một cách gián tiếp bằng cách người nắm giữ bán cổ phiếu ra thị trường.
- Cổ phiếu được phát hành khi thành lập công ty cổ phần hoặc khi công ty cần tăng thêm vốn điều lệ để mở rộng kinh doanh, hiện đại hoá sản xuất.
- Thông thường, người mua cổ phiếu được quyền nhận cổ tức hàng năm có thể cố định hay biến động tùy theo từng loại cổ phiếu (trừ Voting Share).
- Người mua cổ phiếu sẽ là người sở hữu một phần giá trị của công ty, do đó phải chịu trách nhiệm hữu hạn về sự thua lỗ, phá sản của công
- Người mua cổ phiếu được quyền chuyển nhượng cổ phiếu cho người khác.
- Người mua cổ phiếu có quyền kiểm soát sổ sách của công ty khi có lý do chính đáng, phù hợp với điều lệ công ty và luật pháp hiện hành.
- Người mua cổ phiếu có quyền được chia phần tài sản còn lại của công ty khi công ty bị giải thể hoặc phá sản. Số tài sản mà họ được quyền nhận lại tương ứng với số cổ phiếu mà họ đang nắm giữ.
2. Phân loại cổ phiếu
2.1. Theo quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông
Theo tiêu thức này, cổ phiếu bao gồm: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
a. Cổ phiếu thường (Common/Ordinary Stocks)
Khái niệm cổ phiếu thường
Cổ phiếu thường (còn gọi là cổ phiếu phổ thông) là loại cổ phiếu mà người sở hữu nó có các quyền thông thường của một cổ đông.
Đặc điểm của cổ phiếu thường
– Cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường được hưởng các quyền và lợi ích cơ bản sau:
- Hưởng cổ tức theo tuyên bố trả cổ tức của hội đồng quản trị (HĐQT). Đặc điểm cơ bản nhất của loại cổ phiếu thường là có thu nhập (cổ tức) không được xác định trước, mức cổ tức và phương thức chi trả (bằng tiền hay chứng khoán) phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và chính sách phân phối cổ tức của công ty phát hành. Cổ tức (hay lợi tức cổ phần) là thu nhập hàng năm của cổ phiếu. Cổ tức thường được xác định và chia theo năm tài chính, nhưng cũng không ít công ty cổ phần quyết toán cổ tức theo năm tài chính và chia cho cổ đông theo hai, hoặc bốn kỳ trong một năm (6 hoặc 3 tháng chia cổ tức một lần).
- Có quyền sở hữu tài sản của công ty theo tỷ lệ % cổ phiếu nắm giữ.
- Có quyền tham gia đại hội cổ đông và bỏ phiếu bầu hội đồng quản trị. Được quyền ứng cử và đề cử các chức vụ quản lý theo qui chế. Có quyền biểu quyết (voting right) các vấn đề liên quan đến toàn bộ hoạt động kinh doanh của công ty trong đại hội cổ đông theo chính sách bỏ phiếu của công ty và tỉ lệ cổ phiếu mà cổ đông đang nắm giữ. Nếu không tham gia được, họ có thể ủy quyền cho người khác thay mặt biểu quyết.
- Kiểm tra sổ sách của công ty khi có lý do chính đáng, phù hợp với quy định của pháp luật và điều lệ của công
- Được quyền chuyển nhượng cổ phiếu cho người khác.
- Được mua cổ phiếu mới do công ty phát hành theo chính sách ưu đãi của công
- Không được ưu tiên chia vốn khi công ty bị giải thể hay phá sản, có nghĩa là việc chia phần tài sản cho cổ đông thường chỉ được thực hiện sau khi công ty trang trải xong các nghĩa vụ đối với các chủ nợ và cổ đông ưu đãi .
– Trên cổ phiếu chỉ ghi mệnh giá, không ghi cổ tức.
b. Cổ phiếu ưu đãi (Preferred Stocks)
Khái niệm cổ phiếu ưu đãi
Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu cho phép người nắm giữ nó được hưởng một số quyền lợi ưu đãi so với cổ đông thường.
Có nhiều loại cổ phiếu ưu đãi như cổ phiếu ưu đãi về cổ tức, ưu đãi về quyền biểu quyết… trong đó cổ phiếu ưu đãi về cổ tức là loại phổ biến hơn cả.
Đặc điểm của cổ phiếu ưu đãi cổ tức
– Quyền ưu tiên về cổ tức và thanh toán khi thanh lý công Khác với cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi cổ tức mang lại cho người nắm giữ nó được hưởng một khoản lợi tức cổ phần cố định, được xác định trước mà không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Mặt khác, cổ đông ưu đãi cũng được nhận cổ tức trước cổ đông thường. Khi giải thể hay thanh lý công ty, cổ đông ưu đãi được thanh toán giá trị cổ phiếu của họ trước các cổ đông thường.
– Sự tích lũy cổ tức: Phần lớn cổ phiếu ưu đãi của các công ty phát hành đều là cổ phiếu ưu đãi tích lũy. Điều đó có nghĩa là, nếu một năm nào đó công ty gặp khó khăn trong kinh doanh thì có thể tuyên bố hoãn trả lợi tức cổ phần ưu đãi. Số cổ tức đó được tích lũy lại, chuyển sang kỳ kế tiếp và được trả trước khi công ty công bố trả cổ tức cho cổ đông thường. Các quy định này được coi là một biện pháp bảo vệ cổ đông ưu đãi.
– Không được hưởng quyền bỏ phiếu: không giống với các cổ đông thường, các cổ đông ưu đãi không được hưởng quyền bỏ phiếu để bầu ra Hội đồng quản trị và biểu quyết quyết định các vấn đề về quản lý công ty. Ngoài ra, một số công ty cổ phần ở các nước, khi phát hành cổ phiếu ưu đãi có điều khoản quy định cổ đông ưu đãi có quyền biểu quyết nếu công ty không trả được lợi tức cổ phiếu ưu đãi trong một thời kỳ nhất định, ví dụ: ở Pháp thường quy định nếu 3 năm tài khóa liên tiếp liền mà công ty không chi trả được lợi tức cổ phiếu ưu đãi thì cổ đông ưu đãi được quyền biểu quyết về vấn đề, và quyền này sẽ hết hiệu lực khi lợi tức cổ phần nợ những năm trước đã được thanh toán đủ.
– Trên cổ phiếu có ghi cổ tức và mệnh giá.
Các loại cổ phiếu ưu đãi cổ tức
– Cổ phiếu ưu đãi tích luỹ (Cumulative Preferred Stocks)
Là loại cổ phiếu mà nếu một năm nào đó công ty không có lãi để chi trả cổ tức và cổ tức đó được nợ lại trong năm tới và sẽ được trả gộp luôn cùng với cổ tức năm tới hay sẽ được trả vảo một năm nào đó mà công ty có đủ tiền để trả.
– Cổ phiếu ưu đãi không tích luỹ (Non-Cumulative Preferred Stocks)
Là loại cổ phiếu mà trong trường hợp công ty làm ăn thua lỗ, công ty không có tiền để trả cổ tức cho cổ phiếu ưu đãi loại này thì khoản cổ tức đó sẽ bị mất luôn. Kỳ hoạt động tiếp theo, dù công ty làm ăn rất hiệu quả, khoản cổ tức chưa chi trả của kỳ trước cũng không được truy lĩnh mà chỉ chi trả khoản cổ tức của kỳ hiện hành.
– Cổ phiếu ưu đãi tham dự (Participating Preferred Stocks)
Là loại cổ phiếu ưu đãi mà ngoài việc nhận cổ tức theo mức đã công bố trước người chủ sở hữu nó còn được nhận thêm khoản cổ tức đặc biệt nếu năm đó công ty hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao vượt ngưỡng theo quy định.
– Cổ phiếu ưu đãi không tham dự (Non-Participating Preferred Stocks)
Là loại cổ phiếu ưu đãi mà người chủ sở hữu chỉ được nhận cổ tức theo mức đã công bố trước, ngoài ra không được nhận thêm khoản cổ tức nào vào những năm công ty hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao.
– Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi (Convertible Preferred Stocks)
Là loại cổ phiếu mà khi phát hành có ghi kèm điều khoản cho phép người chủ sở hữu chuyển đổi nó thành một số lượng nhất định cổ phiếu thường. Giá cả loại cổ phiếu ưu đãi được chuyển đổi dao động nhiều hơn các loại cổ phiếu ưu đãi khác vì nó gắn liền với cổ phiếu thường. Nếu công ty thành đạt, giá trị cổ phiếu thường trên thị trường tăng lên thì giá cổ phiếu ưu đãi được chuyển đổi cũng gia tăng tương ứng.
– Cổ phiếu ưu đãi có thể thu hồi (Redeemable Preferred Stocks)
Là loại cổ phiếu ưu đãi mà khi phát hành có ghi kèm điều khoản là công ty có thể thu hồi bằng cách bồi hoàn một số tiền, cộng thêm một khoản thưởng nhất định cho người chủ sở hữu. Thường thì các công ty sử dụng quyền thu hồi này để thu hồi các cổ phiếu có lãi suất cổ phần cao và thay thế bằng những cổ phiếu có lãi suất thấp hơn nhằm cải thiện tình hình tài chính của công ty.
Các loại cổ phiếu ưu đãi ở Việt Nam Theo Luật Doanh nghiệp, công ty cổ phần có thể phát hành các loại cổ phiếu ưu đãi sau:
|
2.2. Theo khả năng thu nhập và trạng thái công ty phát hành
a. Cổ phiếu thượng hạng (blue-chip stocks)
Cổ phiếu thượng hạng còn gọi là cổ phiếu lớn là cổ phiếu do các công ty lớn, có tình hình sản xuất kinh doanh ổn định, có uy tín tên tuổi trên thị trường phát hành và giao dịch. Đây là loại cổ phiếu có mức vốn hóa lớn, có ảnh hưởng dẫn dắt chỉ số chứng khoán chung trên thị trường. Cổ phiếu “blue-chip” có tính thanh khoản cao, được sự quan tâm của nhà đầu tư và là tâm điểm phân tích của thị trường. Giá loại cổ phiếu này thường ổn định và sẽ có xu hướng gia tăng khi lãi suất vay vốn trên thị trường giảm.
Một khái niệm tương đương với blue-chip là cổ phiếu dẫn dắt (bellwether). Trên thực tế, đó là cổ phiếu của một công ty được công nhận là công ty hàng đầu trong lĩnh vực hoạt động của mình. Microsoft có thể được coi là cổ phiếu dẫn dắt trong ngành công nghiệp phần mềm. Thường thì hoạt động kinh doanh của các công ty này được coi như dự báo ngành công nghiệp đó sẽ phát triển như thế nào.
b. Cổ phiếu nhỏ (penny stocks)
Là cổ phiếu của các doanh nghiệp nhỏ, có giá trị thấp, không ảnh hưởng đến chỉ số chứng khoán chung trên thị trường. Cổ phiếu này thường không có sức chống cự khi thị trường đi xuống và do đó có mức biến động giá lớn, rủi ro cao, tính thanh khoản thấp.
Bên cạnh thuật ngữ “penny stocks” đôi khi người ta còn sử dụng một số tên gọi khác mang nghĩa tương đương như “microcap stock”, “small cap” hay “nano cap”. Ở thị trường tài chính Mỹ, thuật ngữ “penny stocks” được hiểu là những loại chứng khoán có giá thấp hơn 5$/cổ phiếu, và không đủ tiêu chuẩn để được mua bán trên những thị trường lớn như NYSE, NASDAQ hay AMEX và thường được đánh giá là kém hấp dẫn.
c. Cổ phiếu tăng trưởng (growth stocks)
Cổ phiếu tăng trưởng do các công ty cổ phần đang trong giai đoạn tăng trưởng nhanh phát hành. Đây là những công ty cổ phần có tốc độ tăng thị phần và thu nhập công ty nhanh hơn so với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Ngược lại với cổ phiếu thượng hạng, cổ phiếu tăng trưởng có tỷ lệ chi trả cổ tức hiện tại thấp. Lý do của đặc trưng này bắt nguồn từ quan điểm tái đầu tư của công ty phát hành muốn giành phần lớn lợi nhuận để tài trợ cho chiến lược phát triển kinh doanh.
Do kỳ vọng tăng trưởng cao nên các cổ phiếu này cũng được định giá cao thông qua chỉ số P/E (PER). Chiến lược đầu tư vào cổ phiếu tăng trưởng thường được áp dụng trong chu kỳ đi lên của nền kinh tế.
d. Cổ phiếu giá trị (value stocks)
Cổ phiếu giá trị là loại cổ phiếu của doanh nghiệp không kỳ vọng tăng trưởng cao. Do đó mức giá cổ phiếu thể hiện qua chỉ số P/E (PER) thấp, tạo biên độ an toàn cho nhà đầu tư. Chỉ số PEG (PER/tốc độ tăng trưởng thu nhập – g) thường <1 thể hiện cổ phiếu bị đánh giá thấp. Hệ số đòn bẩy tài chính của loại cổ phiếu này cũng không quá cao, tỉ lệ nợ/vốn chủ <1, tạo sự an toàn cho doanh nghiệp. Đầu tư vào cổ phiếu giá trị thường áp dụng trong chu kỳ suy giảm của nền kinh tế.
e. Cổ phiếu thu nhập (income stocks)
Cổ phiếu thu nhập có mức cổ tức cao hơn mức trung bình. Đây là các lọai cổ phiếu do các công ty thuộc lĩnh vực công ích phát hành và thường dành cho những người già và người về hưu.
f. Cổ phiếu chu kỳ (cyclical stocks)
Cổ phiếu chu kỳ là cổ phiếu của những công ty có lợi nhuận không ổn định mà phụ thuộc vào chu kỳ sống sản phẩm của công ty trên thị trường. Điển hình là cổ phiếu của các công ty thuộc lĩnh vực kinh doanh sắt thép, xi măng, ô tô, máy công cụ,…
g. Cổ phiếu thời vụ (seasonal stocks)
Cổ phiếu thời vụ là cổ phiếu của các công ty cổ phần có tính mùa vụ trong họat động sản xuất kinh doanh. Tính thời vụ đã làm cho thu nhập của công ty không ổn định mà biến động theo thời vụ kinh doanh.
h. Cổ phiếu phòng vệ
Cổ phiếu phòng vệ là cổ phiếu của những công ty mà sự ổn định của chúng hầu như không phụ thuộc vào sự suy thoái của nền kinh tế. Đó là những công ty sản xuất kinh doanh các hàng hóa thiết yếu cho nhu cầu sinh hoạt như thực phẩm, bánh kẹo, nước giải khát… Trong khi các loại cổ phiếu khác bị giảm giá mạnh khi nền kinh tế suy thoái, thì cổ phiếu phòng vệ thường vẫn giữ giá vì có mức cổ tức ổn định. Ngược lại, khi nền kinh tế phát triển, cổ phiếu phòng vệ cũng khó có cơ hội tăng giá như các loại cổ phiếu thông thường khác. Vì vậy, cổ phiếu phòng vệ không được ưa thích trong thời kỳ tăng trưởng của TTCK nhưng sẽ được chú ý nhiều trong giai đoạn khó khăn do tốc độ giảm giá chậm hơn và khả năng trụ giá cũng tốt hơn.
2.3. Theo quyền tham gia bỏ phiếu biểu quyết trong đại hội đồng cổ đông
a. Cổ phiếu đơn phiếu
Cổ phiếu đơn phiếu là loại cổ phiếu được phân bổ một phiếu biểu quyết cho mỗi cổ phiếu. Loại cổ phiếu này thường dùng cho doanh nghiệp ít cổ đông (công ty cổ phần tư nhân), bởi vì tất cả các cổ đông đều có thể và có điều kiện tham dự đại hội đồng cổ đông đầy đủ.
b. Cổ phiếu đa phiếu
Cổ phiếu đa phiếu là loại cổ phiếu mà số phiếu bầu được phân bổ ít hơn số cổ phiếu (nhiều cổ phiếu trên một phiếu biểu quyết) đang lưu hành. Loại cổ phiếu này thường dùng cho doanh nghiệp nhiều cổ đông (công ty cổ phần đại chúng). Tất cả các cổ đông không thể tham dự đại hội đồng để bỏ phiếu biểu quyết các vấn đề quan trọng của công ty. Ví dụ:
công ty ABC quy định 1000 cổ phiếu/ 1 phiếu biểu quyết. Điều đó có nghĩa là cổ đông nào đủ 1000 cổ phiếu sẽ được phân bổ 1 phiếu biểu quyết, nếu không đủ thì phải gộp nhiều cổ đông lại.
c. Cổ phiếu lưỡng phiếu
Cổ phiếu lưỡng phiếu là loại cổ phiếu mà cổ đông của cổ phiếu này được phân bổ hai loại phiếu biểu quyết. Doanh nghiệp phát hành cổ phiếu này thường có ít cổ đông. Quyền lưỡng phiếu này thường dành cho các cổ đông có uy tín, có danh phận trong xã hội hoặc trong ngành chuyên môn mà doanh nghiệp đó đang kinh doanh.
→ Các hình thức bỏ phiếu biểu quyết
Có hai hình thức bỏ phiếu biểu quyết: bỏ phiếu biểu quyết pháp định – biểu quyết đa số (Statutory Voting Right) và bỏ phiếu biểu quyết tích lũy (Cumulative Voting Right).
Quyền bỏ phiếu biểu quyết pháp định là quyền dành cho cổ đông dùng lá phiếu của mình bầu cho các thành viên hội đồng quản trị mà không được dồn phiếu cho một người, hoặc biểu quyết một số vấn đề trong đại hội cổ đông mà không được dồn phiếu một vấn đề nào đó. Ví dụ: cổ đông A được phân bổ 200 phiếu biểu quyết để bầu 5 thành viên hội đồng quản trị. Cổ đông này dành cho mỗi ứng viên 200 phiếu hoặc không dành phiếu nào mà không được dồn phiếu cho một người.
Quyền bỏ phiếu biểu quyết tích lũy cho phép cổ đông có thể dồn phiếu cho một người nào đó mà mình chọn vào hội đồng quản trị. Trường hợp của ông A ở ví dụ trên, ông A có quyền dồn cả 1000 phiếu (200 x 5) để bầu cho 1 người, hoặc 200 phiếu cho ứng viên này, 800 phiếu cho ứng viên khác. Cách bỏ phiếu này thích hợp với những công ty cổ phần đại chúng và có lợi cho cổ đông nhỏ, vì tuy có ít phiếu bầu, nhưng họ có thể tập trung phiếu để tăng thêm giá trị quyển bỏ phiếu của mình cho một người hoặc một vấn đề nào đó mà ông ta ưng thuận.
2.4. Theo khả năng chuyển nhượng
- Cổ phiếu ghi danh: Là loại cổ phiếu có ghi tên người nắm giữ. Tên và thông tin cá nhân của chủ sở hữu được đăng ký và quản lý tại công ty phát hành.
- Cổ phiếu ghi danh không được chuyển nhượng tự do và thường được phát hành cho các sáng lập viên và các thành viên chủ chốt của HĐQT.
- Cổ phiếu vô danh: Là loại cổ phiếu không ghi tên người nắm giữ. Tên và thông tin cá nhân của chủ sở hữu được không được lưu giữ và quản lý tại công ty phát hành. Cổ phiếu vô danh được chuyển nhượng tự do trên TTCK và phát hành rộng rãi ra công chúng.
3. Sự giống và khác nhau giữa cổ phiếu và trái phiếu
a. Những đặc trưng của cổ phiếu ưu đãi giống cổ phiếu thường
- Không có thời hạn thanh toán vốn gốc.
- Lợi tức cổ phần không được tính giảm trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Khi công ty gặp khó khăn trong kinh doanh thu được ít lợi nhuận hoặc không thu được lợi nhuận thì có thể hoãn trả lợi tức cổ phần ưu đãi mà không bị đe dọa bởi nguy cơ phá sản.
b. Những đặc trưng của cổ phiếu ưu đãi giống trái phiếu
- Cổ phiếu ưu đãi về cổ tức có lợi tức được trả theo mức xác định trước.
- Khi công ty thu được lợi nhuận cao thì cổ đông ưu đãi không được tham dự vào việc phân chia phần lợi nhuận cao đó (nếu là cổ phiếu ưu đãi không tham dự), ngược lại nếu công ty kinh doanh sút kém, công ty vẫn phải có trách nhiệm thanh toán lợi tức cho cổ đông ưu đãi, tuy nhiên có thể hoãn trả vào kỳ tiếp theo.
- Về cơ bản cổ đông ưu đãi không có quyền biểu quyết (trừ cổ phiếu ưu đãi biểu quyết).
- Khi công ty bị phá sản cổ đông ưu đãi có quyền ưu tiên được phân chia tài sản trước cổ đông thường.
c. Những đặc trưng giống và khác nhau giữa cổ phiếu thường và trái phiếu công ty
Xét trên góc độ doanh nghiệp, cổ phiếu và trái phiếu đều là chứng khoán và là công cụ mà doanh nghiệp có thể sử dụng để huy động vốn. Tuy nhiên cổ phiếu thường và trái phiếu có những điểm khác nhau cơ bản sau:
- Cổ phiếu là chứng khoán vốn, còn trái phiếu là chứng khoán nợ. Việc phát hành cổ phiếu làm tăng vốn chủ sở hữu, còn phát hành trái phiếu làm tăng nợ.
- Cổ phiếu không có kỳ hạn thanh toán, người mua cổ phiếu không thể trực tiếp rút vốn ra khỏi công ty mà chỉ có thể chuyển nhượng cho người khác. Trái phiếu có kỳ hạn thanh toán và đã được xác định trước. Khi trái phiếu đến hạn thanh toán, công ty có trách nhiệm hoàn vốn cho trái chủ theo mệnh giá.
- Nhìn chung lợi tức trái phiếu được xác định trước (cố định hoặc thả nổi lãi suất) không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty cổ phần. Lợi tức cổ phiếu phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Khi công ty thanh lý, giải thể, người mua trái phiếu được thanh toán trước người có cổ phiếu.
- Người mua cổ phiếu là cổ đông – chủ sở hữu công ty có quyền quản lý công ty đồng thời cũng là người gánh chịu rủi ro của công Còn người mua trái phiếu là người cho vay không có quyền tham gia vào việc quản lý công ty và nói chung không phải chịu rủi ro khi công ty kinh doanh kém hiệu quả. Nhưng nếu công ty phát hành bị phá sản thì cũng phải chịu rủi ro mất khả năng thanh toán.
4. Giá trị của cổ phiếu thường
a. Mệnh giá cổ phiếu
Hầu hết các công ty cổ phần đều ấn định mệnh giá cho mỗi cổ phiếu thường. Mệnh giá này được in trên tờ cổ phiếu hoặc ghi trong sổ sách kế toán, trong điều lệ của công ty phát hành. Mệnh giá cổ phiếu không liên quan trực tiếp đến giá trị thị trường của cổ phiếu đó. Mệnh giá thể hiện tầm quan trọng nhất của nó vào thời điểm phát hành, là căn cứ để xác định số lượng cổ phiếu dự kiến phát hành và tính tỉ suất cổ tức danh nghĩa. Tuy nhiên, một công ty cổ phần cũng có thể phát hành cổ phiếu không có mệnh giá, chẳng hạn như các cổ phiếu đặc biệt dành cho các sáng lập viên của công ty. Cổ phiếu này có đặc điểm là chỉ được hưởng lời sau khi tiền lời thuần tuý đã chia cho các cổ đông (người chủ sở hữu cổ phiếu, đồng sở hữu công ty cổ phần).
b. Thị giá cổ phiếu (Market Price)
Do cổ phiếu thường có lợi tức không cố định mà phụ thuộc vào mức lợi nhuận thu được của công ty cổ phần và chính sách chi trả cổ tức của công ty, nên nó là loại chứng khoán có độ rủi ro cao. Đây cũng chính là nguyên nhân làm cho giá cổ phiếu trên thị trường thường biến động mạnh hơn so với các loại chứng khoán khác. Giá hay thị giá cổ phiếu là giá giao dịch, mua bán cổ phiếu trên thị trường vào một thời điểm xác định. Thị giá cổ phiếu có thể bằng, thấp hơn, hoặc cao hơn mệnh giá và giá trị sổ sách của cổ phiếu. Thị giá cổ phiếu biến động theo thời gian và phụ thuộc vào tác động tổng hợp của nhiều nhân tố như: sự tăng trưởng hoặc suy thoái của công ty cổ phần, tình hình kinh tế vĩ mô, tình hình chính trị, lãi suất thị trường… Sau đây là một số nhân tố cơ bản:
– Những nhân tố bên trong tổ chức phát hành. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng có thể thấy về cơ bản và lâu dài các nhân tố thuộc về nội tại tổ chức phát hành là nhân tố có tác động lớn đến thị giá cổ phiếu. Nhân tố cơ bản nhất gây nên sự dao động thị giá cổ phiếu nằm trong sự thay đổi mức thu nhập hiện tại (tỉ lệ cổ tức – divident rate, giá trị sổ sách của cổ phiếu hay giá trị doanh nghiệp) và triển vọng phát triển trong tương lai của doanh nghiệp. Kết quả kinh doanh hiện tại và tương lai của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ trang thiết bị máy móc và công nghệ, khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường, tiềm lực tài chính, trình độ quản lý của ban lãnh đạo, trình độ chuyên môn và kĩ năng nghề nghiệp của người lao động…
– Những nhân tố bên ngoài tổ chức phát hành: có thể chia thành 2 nhóm nhân tố cơ bản: (1) Những thay đổi trong điều kiện chính trị xã hội như chiến tranh, những thay đổi trong bộ máy quản lý, sự tác động của điều kiện tự nhiên, điều kiện văn hóa, khoa học kĩ thuật…, (2) Những nhân tố về kinh tế, tiền tệ… Kinh tế trong nước và thế giới tăng trưởng, khả năng kinh doanh có triển vọng là điều kiện tốt cho hoạt động đầu tư làm cho giá cổ phiếu có xu hướng gia tăng và ngược lại. Giá cổ phiếu trên thị trường cũng rất nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất và tốc độ lạm phát. Lãi suất và lạm phát gia tăng thường kéo theo sự giảm giá của cổ phiếu…
c. Giá trị sổ sách (book value) của cổ phiếu thường
Giá trị sổ sách hay giá trị tài sản ròng (Net Asset Value – NAV) của cổ phiếu thường (CPT) là giá trị cổ phiếu tính theo số liệu trong sổ kế toán của công ty vào một thời điểm xác định. Giá trị sổ sách của cổ phiếu không cố định mà thay đổi theo thời gian tùy thuộc vào giá phát hành, kết quả kinh doanh, chính sách chi trả cổ tức, chính sách phân phối thu nhập giữ lại, chính sách tách gộp cổ phiếu của công ty cổ phần…
Giá trị sổ sách của 1CPT (NAV) = Tổng vốn CPT / Số CPT đang lưu hành
Số cổ phiếu đang lưu hành: là số cổ phiếu công ty đã bán ra cho nhà đầu tư và công ty đã thu về được 1 phần hoặc toàn bộ số tiền bán số cổ phiếu đó. Đây chính là tổng số cổ phiếu do các nhà đầu tư vào công ty đang nắm giữ. Tổng số cổ phiếu đang lưu hành tại một thời điểm nhất định phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Số cổ phiếu được phép phát hành lần đầu và phát hành bổ sung trong quá trình kinh doanh, số cổ phiếu công ty mua lại, số cổ phiếu quỹ công ty đã bán ra, số cổ phiếu trả cổ tức cho cổ đông, tình hình tách, gộp cổ phiếu của công ty, tình hình chi trả cổ tức bằng cổ phiếu…
Khi một công ty đăng ký vốn điều lệ (lúc thành lập) hoặc đăng ký phát hành cổ phiếu bổ sung, sẽ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép phát hành một lượng cổ phiếu nhất định. Đó là số cổ phiếu được phép phát hành. Các công ty có thể không phát hành hết ngay số cổ phiếu được phép phát hành, họ để lại một số để sử dụng về sau (để chi trả cổ tức, để phát hành tiếp khi cần thiết…). Lượng cổ phiếu đã bán ra gọi là cổ phiếu đã phát hành. Số cổ phiếu đã phát hành nhưng được công ty mua lại và hiện đang do công ty nắm giữ gọi là cổ phiếu quỹ. Số cổ phiếu này không có quyền nhận cổ tức, và không được hưởng các quyền lợi khác như tham gia ứng cử, bầu cử, biểu quyết… như các cổ phiếu đang lưu hành.
Số cổ phiếu đã phát hành = Số cổ phiếu đang lưu hành + số cổ phiếu quỹ
Tóm lược
Cổ phiếu là chứng khoán vốn và không có thời hạn. Cổ phiếu có rủi ro tiềm ẩn cao hơn, nhưng thu nhập kỳ vọng thường cũng cao hơn. Lợi tức cổ phiếu thường không được xác định trước, nó phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty cổ phần và chính sách chi trả cổ tức của công ty.