1. Xu thế phát triển giáo dục
a. Nhận thức mới về giáo dục là sự nghiệp hàng đầu của quốc gia
Từ xưa cũng đã có những quan điểm, tư tưởng khẳng định giáo dục là một trong những nhân tố quan trọng xây dựng xã hội an lạc, phú cường. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: “Kinh tế tiến bộ thì giáo dục mới tiến bộ được, nền kinh tế không phát triển thì giáo dục cũng không phát triển được, giáo dục không phát triển thì không có đủ cán bộ giúp cho kinh tế phát triển, hai việc đó liên quan mật thiết với nhau”.
Bước sang thế kỉ XXI, mỗi dân tộc càng nhận thức chính xác và cụ thể hơn vai trò, sức mạnh to lớn của giáo dục, đã khơi dậy và tạo nên tiềm năng vô tận trong mỗi con người. Trong các tài liệu về khoa học giáo dục, các nhà nghiên cứu trên thế giới đều xác định rõ vai trò, vị trí của giáo dục đối với sự phát triển của xã hội loài người nói chung, đặc biệt đối với sự phát triển nền kinh tế — xã hội của mỗi quốc gia. Giáo dục – Đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu, giáo dục được coi là chiếc chìa khoá cuối cùng mở cánh cửa đưa xã hội loài người đi vào tương lai. Giáo dục là lực lượng sản xuất trực tiếp, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển.
Thực tiễn cho thấy, nguyên nhân thành công của nhiều quốc gia là do có sự đầu tư và chăm lo đặc biệt đến sự phát triển giáo dục. Ngày nay, giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu, tức là phải được thể hiện trong chính sách của quốc gia, thể hiện trong chiến lược phát triển đất nước.
Ở Việt Nam, quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” được đề ra trong Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VII (6- 1991), được ghi vào Hiến pháp CHXHCN 1992 (điều 35). Nội dung của quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” đã được Đảng và Nhà nước chỉ đạo thực hiện bốn điểm chủ yếu sau đây:
– Mục tiêu về giáo dục – đào tạo là mục tiêu ưu tiên quốc gia.
– Việc tổ chức chỉ đạo thực hiện mục tiêu ở tầm quyền lực quốc gia.
– Chính sách đầu tư thuộc hàng ưu tiên ngân sách mỗi năm một tăng.
– Hệ thống chính sách đối với người dạy, người học tập ngày càng thể hiện sự tôn vinh của xã hội; khuyến khích, phát huy các giá trị đức tài của mọi công dân thông qua giáo dục — đào tạo.
Những nội dung cơ bản của quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” đã thể hiện: giáo dục là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước, phải nâng cao chất lượng giáo dục; giáo dục là bộ phận quan trọng hàng đầu của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đối với từng địa phương, từng khu vực và cả nước; cần có những chính sách ưu tiên cao nhất cho giáo dục; phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
b. Xã hội hoá giáo dục
Xã hội hoá giáo dục là một xu hướng phát triển hiện nay trên thế giới. Mục tiêu của xã hội hoá giáo dục là thu hút mọi thành phần, thành viên trong xã hội tham gia đóng góp phát triển sự nghiệp giáo dục và được hương quyền lợi giáo dục như một loại phúc lợi xã hội thể hiện sự dân chủ, tự do, công bằng nhân quyền tối thiểu của con người. Hiện nay, xu hướng chung của giáo dục các nước trên thế giới và trong khu vực là đa dạng hoá, dân chủ hoá, xã hội hoá nhằm huy động ngân sách cho giáo dục từ nhiều nguồn vốn khác nhau.
Xã hội hoá giáo dục đòi hỏi nhà trường khi đóng vai trò chính để truyền thụ kiến thức và hình thành nhân cách con người theo yêu cầu xã hội cần phải được hỗ trợ nhiều mặt bởi các thành phần của xã hội, của mọi thiết chế xã hội, của môi trường lao động, giải trí, nghỉ ngơi, các hoạt động truyền thông đại chúng v.v… đó là giáo dục cho mọi người và mọi người làm giáo dục. Thực hiện giáo dục cho mọi người đòi hỏi không chỉ đơn thuần ở việc mở trường, mở lớp, cung cấp đủ người dạy, trang bị cơ sở vật chất sư phạm mà điều vô cùng quan trọng là nội dung giáo dục và đào tạo phải gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành, giáo dục gắn liền với lao động sản xuất. Thực hiện giáo dục cho mọi người còn là việc mở rộng cho mọi người cơ hội lựa chọn các hình thức tổ chức giáo dục thích hợp với hoàn cảnh của mình.
Xã hội hoá giáo dục là một xu hướng có tính chất chiến lược quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới nhằm phát triển đất nước và hội nhập thế giới. Ở Việt Nam, chủ trương xã hội hóa giáo dục đã được khắng định. Điều 12 trong Luật giáo dục nước CHXHCN Việt Nam nêu rõ “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực hiện đa dạng hoá các loại hình nhà trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục. Mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường dục lành mạnh và an toàn”. Trong nghị quyết TW4, khoá VII năm 1993 cũng nêu rõ: “Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân đóng góp công sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lí của nhà nước”. Đảng và Nhà nước ta cùng đã ban hành nhiều chính sách để thực hiện xã hội hoá giáo dục.
c. Giáo dục suốt đời
Bước sang thế kỉ XXI, giáo dục đứng trước những đổi thay mạnh mẽ của thế giới văn minh hiện đại được tạo ra bởi khoa học và công nghệ. Những vấn đề về toàn cầu hoá, hội nhập khu vực, mong muốn được khẳng định về bản sắc dân tộc, những đòi hỏi tôn trọng sự đa dạng văn hoá: sự xuất hiện các mâu thuẫn của truyền thống và hiện đại, giữa cạnh tranh và bình đẳng giữa bùng nổ kiến thức và năng lực tiếp thu v.v. được đặt ra. Giáo dục với tư cách là yếu tố quan trọng cho sự phát triển xã hội cần phải đáp ứng được các xu hướng lớn đó, việc giáo dục và đào tạo một lần ở trong nhà trường không thể đủ vận dụng cho suốt cuộc đời. Giáo dục suốt đời là một xu thế tất yếu cần thiết vì nó thường xuyên làm giàu tiềm năng của mọi cá nhân, đáp ứng kịp thời các yêu cầu của xã hội.
Giáo dục suốt đời là một nguyên tắc chỉ đạo việc tổ chức tổng thể một hệ thống giáo dục cũng như chỉ đạo việc tổ chức từng bộ phận của hệ thống giáo dục. Giáo dục suốt đời không phải là một hệ thống, cũng không phải là một lĩnh vực giáo dục, ý tưởng cơ bản của nguyên tắc này là giáo dục toàn diện cho các giai đoạn của cuộc đời con người. Thời gian học ở nhà trường không phải là duy nhất để có được hiểu biết, người học có thể thu nhận và xử lí thông tin do xã hội cung cấp trong suốt cuộc đời của mình bằng phương pháp tự học. Chính vì vậy, giáo dục phải thực hiện đa dạng hoá các loại hình đào tạo nhằm tạo cơ hội học tập cho mọi người, giáo dục nhà trường chỉ được coi là có hiệu quả khi nó tạo được cơ sở và động lực cho người học tiếp tục học tập và rèn luyện. Giáo dục suốt đời đòi hỏi con người phải học thường xuyên, do đó việc cập nhật những kiến thức phải trở thành một bộ phận cần thiết của giáo dục. Việc học tập phải được tiến hành liên tục, đảm bảo cho mỗi người tiếp thu được kiến thức mới trong suốt cuộc đời, sự truyền bá những tài liệu tự đào tạo cần dựa trên mạng viễn thông để mỗi người có điều kiện học tập.
Học tập suốt đời là một định hướng mới chuyển từ cách tiếp cận dạy là chính sang học là chính – tức là người dạy đóng vai trò hướng dẫn, chỉ đạo còn người học chủ động, tích cực tiếp nhận tri thức bằng nhiều hình thức, bằng nhiều con đường khác nhau. Muốn vậy giáo dục phải dựa trên bốn trụ cột chính là:
Học để biết: Học tập là con đưòng cơ bản nhất, tất yếu mở mang trí tuệ cho con người. Đặc biệt thời đại bùng nổ thông tin đã đặt ra cho người học cần có một trình độ giáo dục chung đủ rộng, đó là những kiến thức phổ thông ngang tầm thời đại và vốn hiểu biết sâu sắc về một số lĩnh vực có lựa chọn, đó là những công cụ, phương tiện cần thiết giúp cho người học cần biết phân tích, phê phán, có tư duy độc lập, phát hiện, phát minh những điều mới mẻ để nâng cao vị thế con người.
Học để làm: Trong học tập phải chú trọng đến hình thành hệ thống kĩ năng, kĩ xảo tương ứng, tức là thực hiện nguyên lí học gắn với hành, lí luận gắn với thực tiễn đời sống. Trên cơ sở đó để hình thành các năng lực của người lao động được đào tạo ở trình độ cao, dễ dàng thích nghi, thích ứng với thị trường lao động, thị trường việc làm của xã hội nhằm đảm bảo cuộc sống tốt đẹp của cá nhân, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Học để chung sống: Người học tập phải được tiếp thu một nền giáo dục nhân văn, có nhận thức, thái độ, tình cảm và hành vi theo các giá trị chuẩn mực đạo đức trong quan hệ, ứng xử… bảo đảm cuộc sống yên bình, hạnh phúc không chỉ trong gia đình mà còn đối với cộng đồng, với các dân tộc, các tôn giáo, các quốc gia khác vì mục đích chung bảo vệ hoà bình của nhân loại.
Học để tự khẳng định mình: Giáo dục đóng góp vào sự phát triển toàn diện con ngưòi. Với sự tác động của giáo dục, mỗi người học để bộc lộ các tiềm năng của cá nhân bắt đầu từ tuổi thơ đến suốt cuộc đời của con người. Giáo dục thế kỉ XXI là phải mang lại cho con người tự do suy nghĩ, phán đoán, tưởng tượng để có thể phát triển tài năng của mình và tự kiểm tra cuộc sống của mình, vì các tài năng và nhân cách đa dạng là cơ sở để sáng tạo và canh tân kinh tế, xã hội, đưa nhân loại vào thế kỉ mới.
d. Áp dụng sáng tạo công nghệ thông tin vào quá trình giáo dục
Áp dụng công nghệ thông tin sẽ mở rộng năng lực của cá nhân để nắm được thông tin nhằm giải quyết vấn đề trong suốt cuộc đời của họ.
Công nghệ thông tin đang tạo ra một cuộc cách mạng về giáo dục mở và giáo dục từ xa, mang mầm mống của một cuộc cách mạng sư phạm thực sự. Trong phương thức giáo dục từ xa, các phương tiện thông tin như điện thoại, fax, thư điện tử cùng với máy tính nối mạng Internet đến các phương tiện truyền thông đại chúng như thu phát sóng truyền thanh, truyền hình đã làm thay đổi cách dạy và học.
Yếu tố thời gian không còn là một ràng buộc, việc học cá nhân hoá, tuỳ thuộc từng người, giải phóng người học khỏi những ràng buộc về thời gian.
Yếu tố khoảng cách cũng không còn là sự ràng buộc, người học có thể tham gia giờ giảng mà không cần có mặt trong không gian của nhà trường.
Yếu tố quan hệ truyền thông “dọc” giữa ngươi dạy và người học chuyển sang quan hệ “ngang”, người dạy trở thành người hỗ trợ, người học trở thành chủ động.
Người học không chỉ thu nhận thông tin mà phải học cách chiếm lĩnh thông tin tuỳ theo nhu cầu và biến nó thành kiến thức.
Các phương tiện dạy học cổ truyền đơn giản (phấn bảng, giấy bút, sách vở.v.v.) vẫn còn giữ vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục và đào đạo, nhưng những phương tiện nghe nhìn hiện đại sẽ được bổ sung và sử dụng rộng rãi ngay trong phương thức dạy học mặt đối mặt.
Trong kỉ nguyên của công nghệ thông tin, các phương tiện hiện đại phục vụ cho giáo dục và đào tạo là không thể thiếu được.
e. Đổi mới mạnh mẽ quản lí giáo dục
Giáo dục là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận hợp thành, trong quá trình phát triển, các bộ phận này luôn xuất hiện mâu thuẫn theo tính chất biện chứng của chúng. Do đó, cần có những tác động điều khiển nhằm đảm bảo tính cân đối giữa các bộ phận cấu thành để phát triển ổn định. Hoạt động quản lí giáo dục có tác dụng làm cho các bộ phận cấu thành của hệ thống giáo dục vận hành đúng mục đích, cân đối, hài hoà, làm cho hoạt động của toàn hệ thống đạt hiệu quả cao, cần đổi mới tư duy, cơ chế và phương thức quản lí giáo dục theo hướng nâng cao hiệu lực quản lí giáo dục của nhà nước và phân cấp nhằm phát huy tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các địa phương và các cơ sở giáo dục.
Các chính sách giáo dục phải là sự nhất quán và gắn bó giữa tiểu học, trung học và đại học, đồng thời là kết quả của hệ thống học tập suốt đời thực sự. Trong xã hội có nhiều thay đổi khó lường trước được, những cơ sở phải được chủ động trên một phạm vi rộng hơn nhằm làm cho những người quản lí có thể hành động để đối mặt được với những đòi hỏi của xã hội. Quản lí giáo dục đổi mới theo các hướng:
Về tổ chức: Nâng cao hiệu lực chỉ đạo tập trung của Chính phủ trong việc thực hiện Chiến lược giáo dục; đổi mới cơ chế và phương thức quản lí giáo dục theo hướng phân cấp một cách hợp lí nhằm giải phóng và phát huy mạnh mẽ tiềm năng, sức sáng tạo, tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp và mỗi cơ sở giáo dục; tăng cường chất lượng của công tác lập kế hoạch.
Về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lí giáo dục: cần có một đội ngũ cán bộ quản lí tinh thông nghiệp vụ ở tất cả các cấp; các khoá bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lí giáo dục được tiến hành định kì; tăng cường những kĩ năng quản lí và lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch, năng lực phối hợp dọc – ngang.
Về thông tin trong quản lí giáo dục: Củng cố, tăng cường hệ thống thông tin quản lí giáo dục ở các cấp; hiện đại hoá hệ thống thông tin, đảm bảo việc truy nhập dữ liệu nhanh chóng, kịp thời, tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho công tác ra quyết định điều hành hệ thông giáo dục; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác thông tin về phương pháp thu thập số liệu và thông tin khoa học, phương pháp nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, xử lí thông tin, trình độ biên tập, soạn thảo văn bản, lập báo cáo. v.v.
Đánh giá là một căn cứ hết sức quan trọng để quản lí giáo dục. Do vậy, đòi hỏi phải quan tâm xây dựng những phương tiện thu thập thông tin phù hợp, cập nhật và tin cậy. Điều này đòi hỏi phải có những chiến lược nhằm điều chỉnh mục tiêu và hành động cho phù hợp trên cơ sở những thông tin thu lượm được.
Về giáo dục đại học tăng cường dự báo nhu cầu, tăng cường những mối quan hệ giữa giáo dục với thị trường lao động, phân tích và tiên đoán những nhu cầu của xã hội, tăng cường vai trò bồi dưỡng, đào tạo lại, thường xuyên, ngăn chặn sự thất thoát những tài năng, tăng cường quyền tự chủ và chịu trách nhiệm xã hội của trường đại học, có những biện pháp quản lí hướng về tương lai.
f. Phát triển giáo dục đại học
Nền kinh tế tri thức là kết quả nhưng cũng là động lực của sự phát triển sự nghiệp giáo dục tất cả các quốc gia trên thế giới ở các mức độ khác nhau, đặc biệt đối với giáo dục đại học. Khi nền kinh tế sản xuất ngày càng chuyển dịch cơ cấu về các ngành công nghệ cao trong kết cấu giá trị sản phẩm hàng hoá, dịch vụ thì hàm lượng tri thức, trí tuệ ngày càng tăng, các yếu tố nguyên vật liệu ngày càng giảm, đồng thời với tính chất cạnh tranh khốc liệt của toàn cầu hoá thì mỗi quốc gia, mỗi xã hội cần có một đội ngũ kĩ sư, kĩ thuật viên lành nghề cùng với các nhà nghiên cứu đang trở thành những đòi hỏi bức xúc, cấp thiết. Chỉ có thể tìm thấy nguồn lực chất lượng cao từ giáo dục đại học. Cuộc sống xã hội, thị trường luôn đòi hỏi đổi mới công nghệ, sản phẩm thì vai trò, vị trí của giáo dục đại học càng trở nên quan trọng.
Giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học là những nhiệm vụ gắn kết hữu cơ trong trường đại học, sinh viên từ năm thứ nhất trong các trường đại học cũng cần làm quen với việc nghiên cứu khoa học, tham gia nghiên cứu khoa học dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy. Như vậy, việc học tập của sinh viên sẽ phát huy được tinh thần độc lập, sáng tạo, tiếp thu được các phương pháp giải quyết vấn đề khoa học mà xã hội đặt ra cho họ khi bước vào nghề, dù trong sản xuất hay trong phòng thí nghiệm. Các nhà khoa học dự báo rằng, nền kinh tế tri thức sẽ xuất hiện một số vấn đề cho giáo dục nói chung và giáo dục lại học nói riêng sau đây:
Nền kinh tế tri thức dựa chủ yếu vào lao động trí óc và sáng tạo để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao nên có sự trùng hợp giữa học tập và lao động. Khi lao động để hoàn thành một sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao cũng chính là học tập, do đó học gắn với lao động là một.
Trong nền kinh tế tri thức, khối lượng kiến thức được tiếp thu của một sinh viên đại học có giá trị sử dụng nhất định, nếu như không được tiếp tục cập nhật, bổ sung thì sẽ nhanh chóng bị lạc hậu, không đáp ứng được những yêu cầu mới mà xã hội đặt ra. Do đó, các chuyên gia phải thường xuyên, liên tục học tập để theo kịp bước tiến của xã hội, học tập trở thành thách thức suốt đời.
Cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế tri thức tạo nên nhân tố cạnh tranh học tập, ai học tập nhanh hơn, tốt hơn sẽ thắng; có sự cạnh tranh ngoài trường đại học chính quy.
Công nghệ thông tin phát triển bằng máy vi tính, các phương tiện thực nghiệm vi tính hoá vô cùng hữu ích trong việc nâng cao chất lượng học tập, làm thay đổi hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường đại học. Mạng Internet đã tạo cho sinh viên có thể truy nhập vào các cơ sở dữ liệu, tìm được mọi kiến thức mà mình cần, thậm chí có thể đặt câu hỏi cho các địa chỉ và sẽ nhận được sự phụ đạo tận tình, sự đối thoại cởi mở. Việc học tập thông qua máy tính và mạng Internet – không gian điện tử là một xu thế phát triển mạnh trong giáo dục đại học.
Tất cả những xu hướng đổi mới giáo dục của nhân loại nói trên đã ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ đến giáo dục Việt Nam. Chính vì thế, sự đổi mới của giáo dục nước ta hiện nay cũng nằm trong guồng đổi thay của giáo dục nhân loại, điều này giúp cho giáo dục Việt Nam tự hoàn thiện và phát triển cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
2. Định hướng phát triển giáo dục thế kỉ XXI
UNESCO đã chủ trương đẩy mạnh phát triển giáo dục khi bước vào thế kỉ XXI, với chiến lược bao gồm 21 điểm và tư tưởng chính của nó như sau:
– Giáo dục thường xuyên là điểm chủ đạo của mọi chính sách giáo dục; hướng tới nền giáo dục suốt đời, giáo dục bằng mọi cách, xây dựng một xã hội học tập. Giáo dục phải làm cho mỗi người trở thành người dạy và người kiến tạo nên sự tiến bộ văn hoá của bản thân mình.
– Giáo dục không chỉ dạy để cho có học vấn mà phải thực hành, thực nghiệm để có tay nghề, để vào đời có thể lao động được ngay, không bỡ ngỡ. – Phát triển giáo dục gắn liền với phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt chú ý đến giáo dục hướng nghiệp để giúp người học lập thân, lập nghiệp.
– Giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường phải là mục tiêu lớn trong chiến lược giáo dục.
– Giáo viên được đào tạo để trở thành những nhà giáo dục hơn là những chuyên gia truyền đạt kiến thức. Việc giảng dạy phải phù hợp với người học chứ không phải là sự áp đặt máy móc buộc người học phải tuân theo.
Uỷ ban quốc tế về giáo dục cho thế kỉ XXI do Đại hội đồng lần thứ 26 của UNESCO thành lập năm 1991 đã tập trung giải đáp rất nhiều vấn đề về giáo dục cho thế kỉ XXI như: cần loại hình giáo dục nào để phục vụ cho xã hội tương lai; vai trò mới của giáo dục trong thế giới tăng trưởng nhanh về kinh tế; những xu thế chủ yếu để phát triển giáo dục trong xã hội hiện đại đánh giá trình độ kiến thức, kinh nghiệm của các nền giáo dục đã đạt kết quả tốt nhất trong các điều kiện kinh tế, chính văn hoá khác nhau; nghiên cứu người học, người dạy; nghiên cứu tất cả các cấp học, các phương thức giáo dục, uỷ ban đã đề ra sáu nguyên tắc cơ bản cho các nhà quản lí giáo dục, các lực lượng giáo dục như sau:
– Giáo dục là quyền cơ bản của con người và cũng là giá trị chung nhất của nhân loại.
– Giáo dục chính quy và không chính quy đều phải phục vụ xã hội, giáo dục là công cụ để sáng tạo, tăng tiến và phổ biến tri thức khoa học, đưa tri thức khoa học đến với mọi người.
– Các chính sách giáo dục phải chú ý phối hợp hài hoà cả ba mục đích là: công bằng, thích hợp và chất lượng.
– Muốn tiến hành cải cách giáo dục cần phải xem xét kĩ lưỡng và hiểu biết sâu sắc về thực tiễn, chính sách và các điều kiện cũng như những yêu cầu của từng vùng.
– Cần phải có cách tiếp cận phát triển giáo dục thích hợp với từng vùng,vì mỗi vùng có sự khác nhau về kinh tế, xã hội và văn hoá. Tuy nhiên các cách tiếp cận đó cần phải chú ý đến các giá trị chung, các mối quan tâm của cộng đồng quốc tế (quyền con người, sự khoan dung, hiểu biết lẫn nhau, dân chủ, trách nhiệm, bản sắc dân tộc, môi trường, chia sẻ tri thức, giảm đói nghèo, dân số, sức khoẻ).
– Giáo dục là trách nhiệm của toàn xã hội, của tất cả mọi người.
Thế giới hiện đại đã khẳng định vai trò lớn lao của giáo dục: Giáo dục được coi là chiếc chìa khoá tiến tới một thế giới tốt đẹp hơn; vai trò của giáo dục là phát triển tiềm năng của con người; giáo dục là đòn bẩy mạnh mẽ nhất để tiến vào tương lai; giáo dục cũng là điều kiện cơ bản nhất để thực hiện nhân quyền, hợp tác, dân chủ, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.
(Nguồn tài liệu: Trần Thị Tuyết Oanh, Giáo dục học đại cương)