Nội dung: những điều kiện phát triển tâm lý của thiếu niên, những đặc điểm trong hoạt động giao tiếp của thiếu niên. Những nét tâm lý cấu tạo tâm lý mới đặc trưng về nhận thức, tình cảm, nhân cách của thiếu niên.
1. Những điều kiện phát triển tâm lý của thiếu niên
1.1. Khái niệm tuổi thiếu niên
Tuổi thiếu niên là một giai đoạn phát triển tâm lý đầy biến động của một đời người. Ngay từ cuối thế kỷ XIX khi ngành Tâm lý học phát triển mới sơ khai, nhiều nhà Tâm lý học đã nhấn mạnh đến vị trí và ý nghĩa đặc biệt của nó. Tuy nhiên tên gọi và giới hạn độ tuổi vẫn chưa được xác lập một cách rõ ràng, chuẩn xác.
Trong đời sống xã hội, ta có thể gặp rất nhiều cụm từ khác nhau để gọi tên lứa tuổi này. Có những tên gọi phản ánh những biểu hiện tiêu cực của lứa tuổi này như: tuổi khủng hoảng, tuổi khó bảo, tuổi bất trị, tuổi lì lợm,… nhưng cũng có rất nhiều tên gọi thể hiện sự thơ ngây, hồn nhiên, trong sáng và đẹp đẽ của lứa tuổi này như: tuổi dậy thì, tuổi mới lớn, tuổi mực tím, tuổi ô mai, tuổi hồng, tuổi ngọc, tuổi hoa niên,…
Tâm lý học phát triển phương Tây thường quan niệm đây là giai đoạn đầu của tuổi vị thành niên. Tâm lý học phát triển Liên Xô thường quan niệm đây là tuổi thiếu niên hoặc tuổi học sinh trung học cơ sở. Ở Việt Nam, tên gọi và giới hạn độ tuổi cũng mang tính chuẩn tương đối mà thôi.
Về thể chất, dấu hiệu cơ bản để nhận biết một trẻ em đã bước sang tuổi thiếu niên là hiện tượng dậy thì. Về độ tuổi, đa số thiếu niên ở trong độ tuổi 11,12 tuổi đến 14,15 tuổi, ở Việt Nam, lứa tuổi này gần trùng với thời điểm trẻ học ở bậc trung học cơ sở, vì vậy tuổi thiếu niên còn được gọi là tuổi học sinh trung học cơ sở. Có nhiều trẻ bắt đầu dậy thì vào đầu cấp học, bên cạnh đó cũng có nhiều trẻ dậy thì sớm hơn hoặc muộn hơn.
Về thời điểm kết thúc tuổi thiếu niên, các chỉ số thường gắn liền với sự trường thành về mặt cơ thể và sinh dục, còn về phương diện xã hội thì không rõ ràng, ở các nước phát triển, trẻ em dậy thì và có tính tự lập sớm nên thời điểm chấm dứt tuổi thiếu niên thường sớm hơn so với trẻ em ở nước ta.
1.2. Điều kiện về sinh lý
Sự phát triển về mặt sinh lý ở thiếu niên có đặc điểm là tốc độ phát triển cơ thể rất nhanh, mạnh, nhưng không đồng đều về mọi mặt, đồng thời xuất hiện hiện tượng dậy thì đánh dấu sự trưởng thành về hệ sinh dục. Ở lứa tuổi thiếu niên diễn ra sự cải tổ rất mạnh mẽ và sâu sắc về cơ thể, về sinh lý, đây là giai đoạn bứt phá lần thứ hai trong cuộc đời, sau giai đoạn sơ sinh.
a. Sự phát triển về chiều cao và cân nặng
Chiều cao của thiếu niên tăng lên một cách đột ngột, xuất hiện hiện tượng “trổ giò”. Tầm vóc của các em lớn lên trông thấy, bộ đồ mẹ mới mua cho hôm Tết rất vừa vặn, mùa hạ đã trở nên ngắn cũn cỡn. Chiếc xe đạp mới mua, cha phải hạ thấp yên cho chân chạm đất, thế mà chẳng mấy chốc khi đạp xe thì đầu gối đã chạm phải ghi đông …
Tốc độ phát triển về thể chất biểu hiện rất rõ trong lứa tuổi thiếu niên. Vào thời điểm bùng phát dậy thì, trung bình một năm, các em gái cao thêm 5 – 6cm, các em trai cao thêm 6 – 7cm. Cân nặng hàng năm tăng từ 2,4 – 6kg. Những năm gần đây, cân nặng và chiều cao của thiếu niên phát triển với nhịp độ nhanh hơn, mạnh hơn, các em trở nên cao hơn, to hơn so với trẻ em 20 – 30 năm trước, thậm chí còn có hiện tượng béo phì. Một nghiên cứu từ năm 2004 – 2009 trên 759 học sinh cấp 2 ở các quận nội thành TPHCM cho thấy, trẻ thừa cân béo phì đang gia tăng nhanh chóng. Tỷ lệ thừa cân tăng gấp 1,5 và tỷ lệ béo phì tăng gấp 3. Tỷ lệ trẻ thừa cân năm 2004 là 12,5%, đến năm 2009 tăng lên 18.4%. Trong khi đó, tỷ lệ trẻ béo phì tăng từ 1,7% lên 6,2%. Nghiên cứu này cũng cho thấy, tỷ lệ số trẻ Nam béo phì luôn cao hơn nhiều so với trẻ nữ và tăng đều trong từng năm.
b. Sự phát triển của hệ cơ xương
Hệ xương đang diễn ra quá trình cốt hóa về hình thái. Ở các bé gái đang diễn ra quá trình hình thành các mảnh của xương chậu đáp ứng chức năng làm mẹ sau này, vì vậy nên tránh cho các em đi giày quá cao để không ảnh hưởng đến chức năng sinh sản. Thiếu niên dưới 14 tuổi, hệ xương sống vẫn còn nhiều các đốt sụn đang cốt hóa, nên cột sống rất dễ bị cong, vẹo khi ngồi, vận động và mang vác vật nặng không đúng tư thế. Sự hỏng tư thế diễn ra nhiều nhất ở tuổi 12-15, vì vậy cần chú ý nhắc nhở các em.
Sự gia tăng khối lượng các bắp thịt và lực của cơ bắp diễn ra mạnh nhất vào cuối thời điểm dậy thì khiến sức mạnh cơ bắp được tăng cường. Cơ thể các em khỏe lên rõ rệt (các em trai rất hiếu động, thích chạy nhảy, thi thố tài năng, đọ tay, chơi bóng đá để thể hiện sức mạnh cơ bắp…). Tuy nhiên, thiếu niên thường chóng mệt và không có sức chịu đựng dẻo dai như người lớn. Nên chú ý điều đó khi tổ chức các dạng hoạt động cho các em.
Sự phát triển cơ thể của thiếu niên diễn ra không cân đối. Hệ xương, nhất là xương ống tay, ống chân phát triển mạnh, chiều cao tăng nhanh, nhưng xương lồng ngực và hệ cơ phát triển chậm hơn khiến thân hình thiếu niên đa số nhìn cao, gầy ốm, mất cân đối. Xương bản tay và các đốt ngón tay phát triển không đều làm cho sự phối hợp vận động không nhịp nhàng, khiến các em cảm thấy tay chân lóng ngóng, vụng về, đụng đâu bể đó. Điều đó khiến các em thấy không thoải mái, mất tự tin. Các em ý thức được sự lóng ngóng của mình, sợ mọi người chế giễu nên cố tìm mọi cách che giấu, điệu bộ không tự nhiên. Có em tỏ vẻ rụt rè, nhút nhát ít dám tham gia các hoạt động, có em tỏ ra cầu kì làm việc chậm chạp, có em tỏ ra mạnh bạo, can đảm, hành động hấp tấp,… Nếu người lớn không thông cảm mà thường mắng nhiếc thì các em càng mất tự nhiên hơn.
Tóm lại, hệ cơ xương phát triển mạnh nên đa số các em có sức lực tương đối khá, rất hiếu động và thích thử sức mình làm những công việc nặng (khuân vác ti vi, dịch chuyển đồ đạc, …) nhưng do bộ xương chưa cốt hóa hoàn toàn nên cơ thể dễ bị biến dạng, vì thế người lớn nên chú ý để các em không lao động quá sức.
c. Sự phát triển của hệ tim mạch
Hệ tim – mạch phát triển mạnh, nhưng cũng không cân đối thể tích tim tăng nhanh, hoạt động của tim mạnh mẽ hơn nhưng đường kính của các mạch máu lại phát triển chậm hơn dẫn đến sự rối loạn tạm thời của hệ tuần hoàn máu. Do đó, thiếu niên thường hay mỏi mệt, chóng mặt, nhức đầu, tim đập nhanh, huyết áp không ổn định khi phải làm việc gì đó quá sức hoặc quá lâu.
d. Sự phát triển của hệ thần kinh
Trọng lượng não phát triển gần bằng người lớn, đặc biệt các vùng chức năng phát triển mạnh mẽ. Các vùng thái dương, vùng đỉnh, vùng trán, các tua nhánh nơron phát triển rất nhanh, tạo điều kiện nối liền các vùng này với vỏ não, các nơron thần kinh được liên kết với nhau, hình thành những phản xạ có điều kiện phức tạp giúp hình thành các chức năng trí tuệ bậc cao, là tiền đề cho sự phát triển các loại tư duy trừu tượng, tư duy logic, tư duy sáng tạo.
Hoạt động hệ thần kinh của thiếu niên cũng chưa cân bằng, hưng phấn thường mạnh hơn ức chế nên các em thường hiếu động, ham hoạt động. Trong hành động hay có thêm nhiều động tác phụ dẫn đến sự hậu đậu. Hưng phấn mạnh cũng khiến các em khó làm chủ cảm xúc, dễ bị kích động, hay vi phạm kỉ luật, dễ có hành vi bốc đồng, thiếu tôn trọng người khác. Đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực học đường ngày càng gia tăng. Do hưng phấn và ức chế không cân bằng nên các em thường có những hành vi đối lập nhau, chẳng hạn lúc thì ồn ào náo nhiệt, lúc lại tỏ vẻ thờ ơ, mỏi mệt…
Ở tuổi thiếu niên, có sự mất cân đối giữa hệ thống tín hiệu thứ nhất và hệ thống tín hiệu thứ hai, phản xạ có điều kiện đối với tín hiệu trực tiếp được hình thành nhanh hơn so với phản xạ có điều kiện đối với những tín hiệu từ ngữ. Do vậy, ngôn ngữ của thiếu niên cũng thay đổi. Lúc thì các em nói chậm hơn, lắp bắp, nhát gừng, có lúc lại nói nhanh hơn, nuốt lời, mất chữ, thậm chí có trường hợp đứng trước giáo viên nữ các em biến họ thành “quạ” (“chào cô ạ” nói nhanh thành “chào quạ”) …
e. Sự phát triển của hệ nội tiết
Các tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh, nhưng chưa ổn định (đặc biệt là hoocmon của tuyến giáp trạng và tuyến sinh dục) làm ảnh hưởng hoạt động của hệ thần kinh, hệ tim mạch. Do đó, các em dễ xúc động, bực tức, nổi khùng. Nếu người lớn không kiên nhẫn, biết cách thuyết phục thì các em rất dễ có phản ứng mạnh khi phật ý.
Tuy nhiên, tất cả những hiện tượng rối loạn này chỉ mang tính chất tạm thời, khoảng 15 tuổi trở đi các em sẽ bước vào tuổi đầu thanh niên với sự phát triển hài hòa về mọi mặt.
Sự phát triển của tuyến sinh dục (hiện tượng dậy thì)
Sự trưởng thành về mặt sinh dục là yếu tố quan trọng nhất trong sự phát triển cơ thể của thiếu niên. Tuyến sinh dục bắt đầu hoạt động mạnh và những biểu hiện của sự dậy thì xuất hiện. Biểu hiện chủ yếu của sự chín muồi sinh dục ở các em trai là sự xuất tinh, ở các em gái là hiện tượng kinh nguyệt.
Tuổi trung bình bắt đầu dậy thì của các em nữ thường vào khoảng 11, 12 tuổi và kết thúc sau khoảng 3-5 năm. Các em Nam bắt đầu và kết thúc chậm hơn các em gái khoảng 1 đến 2 năm. Hiện tượng dậy thì phụ thuộc nhiều vào đặc điểm thể chất, dinh dưỡng, môi trường sống và hoạt động, sinh hoạt cá nhân…nên thời điểm bắt đầu dậy thì ở một số em có thể sớm hơn hoặc muộn hơn.
Đến 15-16 tuổi, giai đoạn dậy thì kết thúc. Các em đã có thể sinh sản được, nhưng sự trưởng thành thực sự về mặt tâm lý và xã hội thì còn phải đợi thêm nhiều năm nữa. Vì vậy, người lớn cần chú ý giúp đỡ thiếu niên một cách tế nhị để các em yên tâm học tập, tránh hiện tượng “yêu sớm” có thể gây ra những hậu quả đáng tiếc.
Như vậy, sự phát dục cùng với những chuyển biến trong sự phát triển thể chất của thiếu niên có một ý nghĩa quan trọng đối với sự xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới. Những biến đổi rõ rệt về mặt giải phẫu sinh lý làm cho thiếu niên trở thành người lớn theo quy luật tự nhiên và làm nảy sinh trong các em cảm giác về tính người lớn. Sự phát dục làm cho thiếu niên xuất hiện những rung cảm giới tính mới lạ, khiến các em quan tâm nhiều hơn đến người khác giới.
1.3. Điều kiện xã hội
Bước sang tuổi thiếu niên, điều kiện sống và hoạt động của các em có sự thay đổi cơ bản so với tuổi nhi đồng. Vị trí của các em trong gia đình, nhà trường và xã hội được nâng cao. Từ vị trí là “trẻ con ” chuyên dần sang vị trí mới “vừa trẻ con, vừa người lớn”
a. Trong gia đình
Vị thế của thiếu niên trong gia đình đã được thay đổi. Cha mẹ không xem các em là bé nhỏ nữa. Trong gia đình các em được thừa nhận như một thành viên tích cực. được cha mẹ giao cho những nhiệm vụ cụ thể như: trông nhà, nấu cơm, giặt giũ. chăm em nhỏ… Thậm chí nhiều em phải tham gia lao động phụ kiếm tiền cho cha mẹ. Hầu hết các em đã ý thức được các nhiệm vụ đó và thực hiện tích cực. Nhờ đó, thiếu niên hình thành ý thức trách nhiệm cao hơn.
Điều quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với các em là cha mẹ cho phép các em tham gia bản bạc một số công việc trong gia đình, quan tâm và lắng nghe ý kiến của các em, dành cho các em những quyền sống độc lập hơn, từ đó các em cũng có ý thức xây dựng, bảo vệ hạnh phúc và uy tín của gia đình nhiều hơn. Những sự thay đổi đó đã làm cho trẻ ý thức được vị thế của mình trong gia đình và động viên, kích thích các em hoạt động tích cực.
Tuy nhiên, có rất nhiều “dạng” thiếu niên khác nhau. Do điều kiện sinh sống và hoàn cảnh gia đình khác nhau nên vị thế và sự phát triển tâm lý của thiếu niên cũng không đồng đều. Điều kiện kinh tế (giàu, nghèo, vừa đủ ăn..) và thái độ của cha mẹ (quan tâm hay thờ ơ, nuông chiều hay nghiêm khắc…) sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển tâm lý của các em.
b. Trong nhà trường
Trên thực tế, đa số thiếu niên đều đi học trung học cơ sở, vì vậy hoạt động học tập vẫn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của hầu hết thiếu niên và ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển tâm lý của các em dù không phải là hoạt động chủ đạo.
Hoạt động học tập
Trong nhà trường trung học cơ sở, hoạt động học tập được xây dựng một cách cơ bản, hướng vào thỏa mãn nhu cầu nhận thức cho học sinh, phát huy tính tích cực và chủ động trong học tập của các em. Hoạt động học tập của học sinh trung học cơ sở có những điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, có sự thay đổi về nội dung học tập : ở trường trung học cơ sở, các em được tiếp xúc với nhiều môn học khác nhau, mỗi môn học bao gồm hệ thống tri thức lý luận với những khái niệm trừu tượng, khái quát, nội dung học tập phong phú và sâu sắc hơn, do đó đòi hỏi các em phải có sự thay đổi về cách học. Sự phong phú về tri thức của từng môn học làm cho khối lượng tri thức mà các em lĩnh hội được tăng lên nhiều tầm hiểu biết của các em được mở rộng.
Thứ hai, có sự thay đổi về phương pháp dạy học và hình thức học tập: Các em được học nhiều môn học do nhiều thầy, cô giảng dạy, mỗi thầy cô có một phương pháp dạy học khác nhau nên các em cũng bị ảnh hưởng nhiều hơn. Đa số các thầy cô thường áp dụng các phương pháp dạy học tích cực nên đòi hỏi các em phải tích cực và chủ động nhiều hơn trong học tập. Tính chất và hình thức học tập của thiếu niên cũng thay đổi. Việc học của thiếu niên được diễn ra theo nhiều hình thức sinh động khác nhau như thảo luận, thực hành, thí nghiệm, tham quan, …
Thứ ba, động cơ học tập của học sinh trung học cơ sở có một cấu trúc phức tạp, đa dạng nhưng chưa bền vững. Việc học của các em được thúc đẩy bởi nhiều loại động cơ, có động cơ xã hội, có động cơ nhận thức và cả động cơ cá nhân muốn được bạn bè thừa nhận, nể phục, …
Thứ tư, thái độ học tập của học sinh trung học cơ sở cũng được cấu trúc lại. Có sự phân hóa thái độ đối với các môn học, có môn “thích”, môn “không thích”, có môn “cần”, môn “không cần”… Từ đó dẫn đến các thái độ khác nhau trong học tập: từ chăm chỉ, tích cực, đầy trách nhiệm, đến uể oải, thờ ơ, lười biếng,… Thái độ học tập của các em phụ thuộc vào hứng thú, sở thích của các em, đồng thời phụ thuộc nhiều vào nội dung môn học và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Các dạng hoạt động khác
Ngoài hoạt động học tập, các em được tham gia vào nhiều dạng hoạt động ở nhà trường như: lao động, sinh hoạt ngoại khóa, văn nghệ, thể thao… Các em tham gia những hoạt động này không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa mà còn thỏa mãn nhu cầu giao tiếp với bạn bè.
c. Ngoài xã hội
Vị thế xã hội của thiếu niên được nâng cao. Các em có nhiều quyền hạn và nghĩa vụ xã hội hơn. Các em gia nhập đội thiếu niên tiền phong, tích cực tham gia các hoạt động xã hội khác nhau. Đến 14 tuổi, các em có thể gia nhập Đoàn Thanh Niên Đảng Cộng Sản Việt Nam, được làm chứng minh thư, được xã hội công nhận quyền công dân… Xã hội thừa nhận các em như một thành viên tích cực và giao phó cho các em một số công việc nhất định trên nhiều lĩnh vực khác nhau như gìn giữ môi trường ‘sạch và xanh”, giữ trật tự đường phố, giúp đỡ gia đình thương binh, liệt sĩ, hướng dẫn sinh hoạt hè cho các em nhỏ…
Do tham gia công tác xã hội, mà quan hệ của học sinh trung học cơ sở được mở rộng, kinh nghiệm cuộc sống phong phú lên, nhân cách của thiếu niên được hình thành và phát triển.
1.4. Điều kiện về tâm lý
Điều kiện tâm lý cho sự hình thành và phát triển tâm lý ở tuổi thiếu niên chính là sự chín muồi về tâm lý trong giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi nhi đồng bước sang tuổi thiếu niên. Tâm lý thiếu niên sẽ được hình thành và phát triển dựa trên nền tảng của những cấu trúc tâm lý đã có. Cuối tuổi nhi đồng, các em đã đạt những thành tựu nổi bật: phát triển các thao tác tư duy cụ thể; có khả năng tổ chức và kiểm soát các hành động nhận thức, hành vi theo mục đích xác định; biết phân tích, lập các kế hoạch hành động; ngôn ngữ đã hoàn thiện ngữ pháp và ngữ nghĩa của ngôn ngữ nói, hình thành các kỹ năng đọc và viết tiếng mẹ đẻ; phát triển nhận thức xã hội, cùng với sự phát triển lòng vị tha và tính hiếu chiến (giảm dần) trong đời sống xúc cảm – tình cảm. Sự phát triển các đặc trưng tâm lý này gắn liền với sự nhận thức các chuẩn mực đạo đức, trên cơ sở đó hình thành hành vi đạo đức của các em.
L.x. Vưgốtxki cho rằng những thành tựu phát triển tâm lý cuối tuổi nhi đồng đã khiến các em mở rộng và phát triển hứng thú cùng những mối quan tâm mới trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong giai đoạn chuyển tiếp, và đó chính là điều kiện tâm lý chín muồi cho sự hình thành và phát triển tâm lý ở lứa tuổi thiếu niên.
Tóm lại, sự phát triển nhảy vọt về thể chất, sự thay đổi điều kiện sống và hoạt động (học tập, giao tiếp…), sự chín muồi về tâm lý ở giai đoạn chuyển tiếp là những điều kiện giúp cho tâm lý của lứa tuổi thiếu niên hình thành và phát triển nhảy vọt về chất, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển tâm lý cá nhân.
2. Hoạt động giao tiếp của thiếu niên
Hoạt động giao tiếp cũng là một trong những điều kiện của sự phát triển tâm lý của tuổi thiếu niên. Tuy nhiên, hoạt động giao tiếp là hoạt động chủ đạo của thiếu niên nên cần đi sâu nghiên cứu hoạt động này. Hoạt động giao tiếp ở tuổi thiếu niên có những thay đổi về chất so với hoạt động giao tiếp của tuổi nhi đồng, đặc biệt trong giao tiếp với người lớn và bạn bè đồng trang lứa. Giao tiếp mang tính chất tâm tình trở thành hoạt động chủ đạo của tuổi thiếu niên.
2.1. Giao tiếp của thiếu niên với người lớn
a. Đặc điểm giao tiếp giữa thiếu niên với người lớn
Nét đặc trưng trong giao tiếp của thiếu niên với người lớn là sự cải tổ lại mối quan hệ không bình đẳng giữa trẻ em và người lớn ở tuổi nhi đồng, hình thành kiểu quan hệ mới dựa trên cơ sở của sự bình đẳng và tôn trọng.
Quan hệ giữa thiếu niên với người lớn có những điểm đáng chú ý sau:
Một là, sự phát triển mạnh mẽ về thể chất, sự thay đổi của điều kiện sống và các dạng hoạt động học tập, giao tiếp… làm xuất hiện ở thiếu niên một cảm giác mới: ‘‘cảm giác mình là người lớn L.x. Vưgốtxki cho đây là cấu tạo tâm lý mới trung tâm trong nhân cách của thiếu niên. Các em cảm thấy mình không còn là trẻ con nữa, những cũng chưa phải là người lớn thực sự. Trong con người các em, những nét tính cách “vừa trẻ con, vừa người lớn’’ đan xen nhau, đôi lúc trông thật trẻ con, nhưng đôi lúc ra vẻ người lớn thực sự. Các em học đòi và bắt chước người lớn, nhưng thực chất các em còn hiểu mơ hồ về thế giới người lớn. Các em có xu hướng vươn lên làm người lớn và luôn cố gắng để được mọi người công nhận rằng mình đã lớn, nên trong suy nghĩ và hành động các em thường bộc lộ rõ nhu cầu được độc lập, được tự khẳng định mình.
“Cảm giác mình là người lớn” là nét đặc trưng trong nhân cách thiếu niên, vì nó biểu hiện lập trường sống mới của thiếu niên đối với người lớn và thế giới xung quanh. Cảm giác mình là người lớn được thể hiện rất phong phú về nội dung và hình thức: về hình thức, các em bắt đầu quan tâm đến cách ăn mặc, đi đứng, ”nói năng,… về nội dung, các em quan tâm đến những phẩm chất và năng lực riêng,… Trong học tập, các em muốn độc lập lĩnh hội tri thức, muốn có lập trường và quan điểm riêng. Trong gia đình và xã hội, các em muốn được độc lập và không phụ thuộc nhiều vào người lớn. Trong giao tiếp các em có nhu cầu được độc lập, được tự khẳng định mình.
Sự phát triển tính người lớn ở thiếu niên phụ thuộc vào nhiều yêu tố: sự phát triển thể chất và sinh lý, điều kiện sống và hoạt động: tính tích cực hoạt động của cá nhân. Hoàn cảnh sống khác nhau sẽ tác động nhiều đến trẻ. Những trẻ có sự phát triển mạnh mẽ về thể chất, có cơ hội tiếp xúc nhiều đối tượng khác nhau, sớm phải lao động kiếm sống, hoặc sống trong những gia đình có cha mẹ biết quan tâm đúng mức, biết tạo điều kiện cho con sớm thể hiện tính độc lập thì sẽ phát triển tính độc lập, tự chủ nhanh hơn những trẻ khác.
Sự phát triển tính người lớn ở lứa tuổi này có thể xảy ra theo nhiều phương hướng khác nhau như hướng “sách vở”, hướng “học đòi”, hướng “độc lập, tự chủ”,… Những cách thể hiện tính người lớn khác nhau sẽ hình thành những xu hướng phát triển hệ thống giá trị có nội dung khác nhau, đánh dấu ngã rẽ cuộc đời với những số phận khác nhau.
Hai là, nhu cầu được độc lập, được tự khẳng định mình trong quan hệ với người lớn được thể hiện rất cao. Các em đòi hỏi người lớn phải đối xử bình đẳng, tôn trọng, tin tưởng và mở rộng quyền hạn độc lập của các em. Nếu người lớn không thay đổi cách ứng xử, vẫn đối xử với các em theo kiểu các em là trẻ con, ra lệnh cho các em, can thiệp thô bạo vào từng việc làm của các em, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc học tập và sinh hoạt của các em thì bằng cách này hay cách khác, các em sẽ có những thái độ và phản ứng tiêu cực, chống đối lại người lớn một cách công khai hay ngấm ngầm: cãi lại người lớn, không phục tùng yêu cầu của người lớn, né tránh người lớn,…
Nếu được đáp ứng các nhu cầu, thiếu niên cảm thấy sung sướng, hài lòng. Nhũng cố gắng của các em được người lớn thừa nhận có tác dụng thúc đẩy các em tích cực hoạt động, chấp nhận những chuẩn mực đạo đức và hành vi ứng xử của người lớn.
Ba là, trong quan hệ với người lớn, ở thiếu niên xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Trước hết là những mâu thuẫn nội tại bên trong của trẻ. Một mặt các em có nhu cầu, mong muốn được độc lập, thoát khỏi sự giám sát của người lớn, mặt khác các em vẫn có nhu cầu mong muốn được người lớn gần gũi, chia sẻ, động viên định hướng cho mình. Tiếp theo, là những mâu thuẫn giữa bản thân thiếu niên với người lớn. Một mặt, thiếu niên cảm thấy mình đã lớn, muốn được người lớn đối xử bình đẳng và tôn trọng. Tuy nhiên, không phải tất cả người lớn đều bắt nhịp được những mong muốn đó của thiếu niên và dễ dàng thay đổi kiểu quan hệ cũ (không bình đẳng) sang kiểu quan hệ mới, mà thông thường người lớn đã quen đối xử với các em như trẻ nhỏ. Hơn nữa sự thay đổi nào cũng cần có thời gian và bản thân người lớn cũng gặp nhiều khó khăn khi phải thay đổi thói quen. Vì lẽ đó nên giao tiếp giữa người lớn với thiếu niên thường nảy sinh những xung đột.
Bốn là, trong tương tác với người lớn thiếu niên có xu hướng cường điệu hóa những tác động của người lớn mà bản thân các em cho là không phù hợp. Các em hay suy diễn, thổi phồng, cường điệu hóa những tác động đó. Chỉ cần người lớn hành xử làm tổn thương chút ít đến các em thì các em thường xem đó là sự xúc phạm lớn và phản ứng tiêu cực với cường độ mạnh, trong khi những hành vi có thể gây nguy hại đến tính mạng người khác và bản thân thì các em lại xem nhẹ. Điều đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng stress, trầm cảm, tự tử, tự hủy hoại bản thân,… ở thiếu niên có xu hướng ngày càng gia tăng.
b. Các kiểu quan hệ ứng xử của người lớn với thiếu niên
Trong quan hệ giao tiếp ứng xử của người lớn đối với thiếu niên có ba phong cách khá điển hình.
Phong cách dân chủ bình đẳng
Trong phong cách giao tiếp ứng xử kiểu này, người lớn thường quan tâm đến sự biến đổi về tâm sinh lý của các em, từ đó có sự thay đổi trong suy nghĩ và hành động cho phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi các em. Người lớn thể hiện sự tôn trọng, tin tưởng các em, đặt các em vào vị trí một người bạn – người đồng hành. Giữa người lớn với thiếu niên có được sự đồng cảm, chia sẻ, gắn bó về tình cảm. Đây là kiểu quan hệ dân chủ, hợp tác. Kiểu quan hệ này làm giảm sự xung đột .thế hệ giữa người lớn và trẻ em, có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của thiếu niên.
Phong cách độc đoán
Trong phong cách giao tiếp ứng xử kiểu này, người lớn thường không xem trọng nhu cầu độc lập của các em, thường xuyên áp đặt tư tưởng, thái độ và hành vi của bản thân lên các em, đối xử với các em như đối với trẻ nhỏ, bắt các em phải nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của người lớn. Quan hệ ứng xử kiểu này thường chứa đựng nhiều mâu thuẫn và làm nảy sinh nhiều xung đột giữa người lớn với thiếu niên, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển tâm lý của thiếu niên.
Phong cách tự do
Trong phong cách giao tiếp ứng xử kiểu này, người lớn lại quá xem trọng những yêu cầu của thiếu niên và để cho thiếu niên muốn làm gì thì làm, quan hệ kiểu này thường có tính hai mặt. Với những thiếu niên có tính tự giác cao thì có thể cảm thấy thoải mái, phát huy được tính độc lập tự chủ của mình trong cuộc sống, nhưng nếu gặp những thiếu niên hay đòi hỏi hoặc không tự giác thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển tâm lý của các em.
c. Quan hệ giữa thiếu niên với cha mẹ
Quan hệ giữa cha mẹ – con cái tuổi thiếu niên là mối quan hệ thường nảy sinh nhiều xung đột tâm lý nhất. Xung đột tâm lý thường nảy sinh giữa cha mẹ – con cái khi cả hai bên cùng nhau đối diện với một vấn đề nào đó nhưng lại có sự khác nhau về nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử… Những xung đột thế hệ xoay quanh các mối quan hệ giữa cha mẹ – con cái là điều khó tránh khỏi. Những nghiên cứu chỉ ra rằng trẻ em và người lớn cách nhau 18 năm có những suy nghĩ và cảm nhận rất khác nhau về cuộc sống. Tuy nhiên, biểu hiện, và mức độ thể hiện, cường độ xung đột phụ thuộc vào nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử của hai bên, nhất là cha mẹ.
Các kiểu cha mẹ
Nhiều nhà nghiên cứu đã dày công nghiên cứu những cách thức làm cha mẹ, trong đó phổ biến nhất là quan điểm của Diang Baumrind. Bà phân tích rõ 4 kiểu làm cha mẹ và những ảnh hưởng của nó đến hành vi xã hội của trẻ vị thành niên.
Cha mẹ độc đoán là kiểu cha mẹ rất khắt khe, nhất nhất bắt con cái phải đi theo đường hướng do cha mẹ vạch ra và luôn đòi hỏi con cái phải nỗ lực. Cha mẹ độc đoán thường ít trao đổi bản bạc với con, quản lý gắt gao và khống chế con hoàn toàn : “con phải làm như mẹ đã nói, không được bản luận gì thêm!”. Kiểu làm cha mẹ độc đoán thường làm cho con cái có những khiếm khuyết về mặt hành vi xã hội, các em thường thụ động hoặc Chống đối, thiếu kỹ năng giao tiếp, gặp nhiều khó khăn khi khởi sự hành động như sợ sệt, lo lắng, bất an,…
Cha mẹ quyền uy là những người khuyến khích con cái độc lập nhưng vẫn đặt ra những giới hạn cần thiết và kiểm soát những hoạt động của con. Họ cho phép con cái được trao đổi thoải mái và luôn bày tỏ tình cảm với con. Cách làm cha mẹ như thế thường là tiền đề cho con học cách ứng xử tốt trong xã hội. Con cái của cha mẹ quyền uy thường tự tin, tin cậy cha mẹ, có kỹ năng giao tiếp xã hội tốt. Cha mẹ quyền uy vẫn có thể điều khiển cuộc sống của con. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy nếu thực hiện tốt kỹ năng làm cha mẹ quyền uy sẽ làm giảm những hành vi có vấn đề và cải thiện được thành tích học tập của con cái.
Cha mẹ dễ dãi được chia làm hai loại: cha mẹ thờ ơ và cha mẹ nuông chiều.Cha mẹ thờ ơ là mẫu cha mẹ chẳng quan tâm gì đến cuộc
Sống của con cái. Cha mẹ thờ ơ thường không thể trả lời được câu hỏi “Anh chị có biết con anh chị giờ này đang ở đâu, làm gì? Cháu nó đang gặp vấn đề gì không?”. Con cái có cha mẹ thờ ơ đặc biệt có nhu cầu về tình cảm và sự quan tâm của cha mẹ. Các em thường nghĩ là cha mẹ coi trọng những việc khác hơn chúng. Điều này dẫn con cái đến những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực khiến chúng thường kém cói trong ứng xử xã hội, thiếu kỹ năng giao tiếp, tự chủ kém và không xử lý tình huống độc lập được.Cha mẹ nuông chiều là mẫu cha mẹ rất quan tâm đến con cái nhưng lại đặt ra rất ít yêu cầu cho con. Họ cho phép con họ làm những điều chúng muốn. Và kết quả là con cái họ không học được cách làm chủ bản thân mà luôn trông chờ vào sự giúp đỡ của người khác. Cha mẹ nuông chiều con thường dễ làm con đến sự kém cói về kỹ năng xã hội, giao tiếp kém, sống ích kỷ, và thiếu tự tin.
Trong một khảo sát, Diang Baumrind (1991) đã phân tích vai trò của cha mẹ và kỹ năng xã hội của con cái tuổi vị thành niên. Những khảo sát thực tế của bà cho thấy sự hưởng ứng (cảm thông hay nâng đỡ, ..) của cha mẹ có liên quan nhiều đến kỹ năng xã hội của các con hơn hẳn những yếu tố khác. Khi chính cha mẹ có vấn đề về hành vi xã hội (như nghiện rượu, bạo lực, vợ chồng hay cãi vã,…) thì con cái thường gặp nhiều vấn đề trong cuộc sống và giảm sút kỹ năng xã hội. Những nghiên cứu khác đã đưa ra nhiều bằng chứng cho thấy sự độc đoán hay quá dễ dãi của cha mẹ đều là những cách thức làm cha mẹ kém hiệu quả hơn mẫu cha mẹ uy quyền, nghiêm khắc.
d. Quan hệ giữa thiếu niên với thầy, cô giáo
Trong quan hệ giữa thiếu niên với thầy cô giáo cũng thường hay xảy ra các mâu thuẫn, về phía thầy cô, trong một số trường hợp, thầy cô hay hiểu nhầm học sinh. Chẳng hạn như khi học sinh có cử chỉ, lời nói nông nổi, thầy cô thường nghĩ là học sinh thiếu tôn trọng mình, hay như trường hợp một số bạn trẻ đến lớp ăn mặc xộc xệch, đi đứng nghênh ngang, nói năng bốp chát.. để gây chú ý với bạn bè xung quanh, mà không có ý khinh thường gì thầy cô, nhưng trong tâm lý thầy cô tự nhiên thấy không thiện cảm với bạn đó, thế là nảy sinh mâu thuẫn, một bên thì tỏ vẻ khiêu khích, một bên thì cảnh giác dè chừng, về phía học sinh, đôi khi học sinh nghi ngờ khả năng sư phạm của thầy cô “giờ cô X buồn ngủ thấy mồ! Sư phụ Y tung hỏa mù thế ai mà hiểu!”, một số bạn cố tình hỏi những câu hỏi lắt léo hóc búa để thử tài thầy cô, đặt biệt danh cho thầy cô… Khi bị điểm kém hoặc bị trách phạt học sinh có khi không nhận ra lỗi của mình mà đổ cho giáo viên quá nghiêm khắc, thậm chí nghĩ là do thầy cô quá khắt khe với mình, đối xử không công bằng, thiên vị bạn nào đó trong lớp, chứ “mình làm gì nên tội”… Vì vậy, trong giao tiếp với thiếu niên nếu thầy cô hiểu tâm lý các em, gương mẫu, tôn trọng, tin tưởng các em, biết cảm thông, hòa đồng để thuyết phục các em thì tác dụng giáo dục của thầy cô được các em coi trọng, từ đó các em ít mắc sai lầm.
Tóm lại, những mâu thuẫn hay xung đột giữa người lớn với thiếu niên thường dẫn đến những hậu quả xấu đối với sự phát triển tâm lý của các em. Sự rối nhiễu tâm lý, sự sai lệch hành vi phần lớn có căn nguyên từ mâu thuẫn và xung đột giữa người lớn và trẻ em lứa tuổi này. Vì vậy, để tránh xảy ra xung đột, người lớn cần có sự hiểu biết về tâm sinh lý lứa tuổi thiếu niên, gương mẫu, khéo léo, tế nhị trong ứng xử. Đồng thời, cũng cần phải giáo dục thiếu niên để các em biết, hiểu và cảm thông với người lớn nhiều hơn.
2.2 Giao tiếp của thiếu niên với bạn bè
a. Giao tiếp của thiếu niên với bạn cùng giới
Hoạt động giao tiếp mang tính chất cá nhân thân tình là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi này. Phạm vi giao tiếp của thiếu niên được mở rộng trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Thông qua giao tiếp, thiếu niên lĩnh hội được các chuẩn mực, giá trị đạo đức của xã hội, xem xét, đánh giá lại các giá trị, đáp ứng nhu cầu độc lập, nhu cầu được người khác thừa nhận, nhu cầu tự khẳng định mình.
Nhu cầu kết bạn, khát khao tìm kiếm một vị trí trong long bạn bè sẽ biến thành động cơ chủ đạo trong các hành động của thiếu niên. Nếu không tìm được vị trí thích hợp thiếu niên thường khó thích nghi với đời sống xã hội và dễ có hành vi lệch chuẩn (L.I. Bagiôvich).
Nhu cầu kết bạn tâm tình, nguyện vọng hòa mình vào tập thể, tìm một chỗ đứng trong lòng tập thể là một cấu tạo tâm lý mới đặc trưng trong nhân cách thiếu niên.
Tình bạn của thiếu niên
Nhu cầu kết bạn ở thiếu niên phát triển rất mạnh. Một mặt, giao tiếp là nhu cầu thiết yếu của con người, với thiếu niên nhu cầu kết bạn trở nên thiết yếu vì các em muốn tách khỏi người lớn, muốn được đối xử bình đẳng thân ái, muốn có người bạn tin cậy để chia sẻ, dãi bày mọi vướng mắc, băn khoăn, cùng trao đổi những điều thầm kín riêng tư mà trong quan hệ với người lớn các em ít đạt được. Mặt khác, đây là lứa tuổi đang khao khát tìm kiếm một chỗ đứng trong lòng bạn bè, một vị trí xã hội nhất định trong lòng tập thể, muốn được mọi người thừa nhận và tôn trọng mình. Các em cần giao tiếp với bạn để được thể hiện tính độc lập, để tự khẳng định mình. Thiếu niên thường coi trọng những đánh giá của bạn bè hơn là cha mẹ, đặc biệt trong trường hợp quan hệ của các em với cha mẹ không thuận hòa thì sự giao tiếp với bạn bè sẽ gia tăng và ảnh hưởng của bạn bè đối với các em càng mạnh mẽ. Các em coi quan hệ với bạn là quan hệ riêng của mình, không muốn người lớn dòm ngó, can thiệp.
Tình bạn của thiếu niên đã trở nên sâu sắc, gắn bó với nhau hơn, hình thành những nhóm bạn thân. Lúc đầu phạm vi giao tiếp của các em thường là rộng, nhưng không được bền vững, có tính chất tạm thời, là thời kì lựa chọn, tìm kiếm người bạn thân, về sau những em có cùng hứng thú, cùng yêu thích một loại hoạt động nào đó, thì kết thành nhóm bạn thân. Phạm vi giao tiếp của các em hẹp lại, nhưng quan hệ của các em gắn bó với nhau hơn, chịu ảnh hưởng của nhau (có thể trở thành người tốt hoặc ngược lại). Vì vậy giao tiếp với bạn là nguồn nảy sinh hứng thú mới. Bạn bè mà các em yêu thích có thể trở thành hình mẫu đối với các em, nhất là các bạn có những ưu điểm.
Trò chuyện tâm tình, trao đổi tâm tư nguyện vọng giữ một vị trí quan trọng trong giao tiếp của thiếu niên. Các em thường kể cho nhau về mọi mặt sinh hoạt, đời sống và suy nghĩ của mình, kể cả những điều “bí mật” nhiều khi các bạn không kể với bất cứ ai. Vì thế mà các em yêu cầu rất cao đối với bạn, phải cởi mở, hiểu nhau, tế nhị, vị tha, đồng cảm và giữ bí mật cho nhau.
Quan hệ với bạn của thiếu niên được xây dựng dựa trên cơ sở của “bộ luật tình bạn “Bộ luật tình bạn” của các em là một hệ thống những chuẩn mực đạo đức của tình bạn như: tôn trọng lẫn nhau, quan hệ bình đẳng với nhau, sẵn sàng giúp đỡ nhau, trung thành, gắn bó… Các em thường “lý tưởng hóa” tình bạn, cho rằng bạn bè lí tưởng phải “chia ngọt sẻ bùi”, “sống chết có nhau”… So với tuổi học sinh nhỏ và cả những lứa tuổi sau này, quan hệ của thiếu niên được xây dựng trên cơ sở của các chuẩn mực tình bạn với những yêu cầu cao và máy móc. Thiếu niên đòi hỏi cao về phía bạn cũng như bản thân, lên án các hành vi phản bạn, từ chối giúp bạn, nói xấu bạn… Tuy nhiên, các em cũng còn ngộ nhận một số chuẩn mực tình bạn sai lầm như: bạn bè phải bao che khuyết điểm cho nhau, không được tố giác tội của bạn với người lớn…
Điều đáng lưu ý là các yêu cầu trong “bộ luật tình bạn’- về cơ bản khá phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển các giá trị đạo đức xã hội và nhân văn đang dần hình thành ở các em. Người lớn, nhất là cha mẹ và thầy cô giáo cần khuyến khích các em duy trì và phát triển các chuẩn mực này. Đồng thời, cũng cần thường xuyên quan tâm, giúp đỡ các em tránh sự cường điệu hóa, tuyệt đối hóa các chuẩn mực đó trong ứng xử hàng ngày, cũng như tránh những thái độ và hành vi không phù hợp như bao che khuyết điểm cho bạn, a dua theo bạn làm chuyện xấu …
Trong cuộc sống hàng ngày, thiếu niên không thể thiếu bạn. Việc không có bạn thân, hoặc những mối bất hòa trong tình bạn khiến bạn bè giận nhau hoặc phá vỡ tình bạn đều làm cho các em cảm thấy đau lòng. Tình huống khó chịu nhất đối với các em là sự phê bình của bạn bè, còn hình phạt nặng nhất với các em là bị bạn bè tẩy chay. Sự tẩy chay của bạn bè, của tập thể cũng có thể thúc đẩy thiếu niên sửa chữa nhược điểm của mình để hòa nhập với bạn, nhưng cũng có thể sẽ khiến các em tìm kiếm và gia nhập nhóm bạn khác, hoặc nảy sinh các hành vi tiêu cực như phá phách, gây hấn… Người lớn cần lưu ý điểm này, .vì khi thiếu niên xa rời tập thể, kết bạn với các nhóm bạn xấu, tự phát ngoài trường học có thể dẫn đến những hậu quả đáng tiếc, đưa đẩy các em vào con đường phạm tội, bụi đời.
Ngày nay, giao tiếp bạn bè của thiếu niên rất đa dạng và phức tạp, dễ hư hỏng nên nhiệm vụ của gia đình, nhà trường, xã hội giúp các em định hướng giá trị tình bạn cho đúng.
b. Giao tiếp của thiếu niên với bạn khác giới
Giao tiếp của thiếu niên với bạn khác giới cũng có chung những đặc điểm như giao tiếp với bạn cùng giới, tuy nhiên trong quan hệ với bạn khác giới cũng có thêm những đặc điểm riêng. Sự dậy thì đã làm xuất hiện ở thiếu niên những rung động, những cảm xúc mới lạ đối với bạn khác giới. Tự ý thức phát triển khi đó các em nhanh chóng nhận thức được những đặc điểm giới tính của mình. Các em đã bắt đầu quan tâm lẫn nhau, ưa thích nhau, từ đó quan tâm đến vẻ bề ngoài của mình’cũng như của người khác một cách có chủ định.
Quan hệ với bạn khác giới của các em thường trải qua 3 giai đoạn :
Đầu tuổi thiếu niên (học sinh lớp 6 – 7) : Các em thể hiện sự quan tâm đến bạn khác giới một cách trong sáng, hồn nhiên, ở các em gái, thái độ quan tâm đến bạn thường thể hiện khá thụ động và kín (đáo (làm dáng hơn trước, chú ý đến hình thức của mình hơn), các em thường che giấu tình cảm của mình bằng cách tỏ vẻ thờ ơ. lãnh đạm với bạn trai. Các em trai thể hiện thái độ này một cách công khai, vụng về dưới hình thức gây sự tràn lan (xô đẩy, giật tóc, dấu dép, giấu cặp, trêu chọc, ghép đôi, đụng chạm,…). Các em gái nhiều khi rất bực, không hài lòng về những hành vi như thế của các em trai, nhưng khi các em gái ý thức được vấn đề thì không còn bực tức, giận dỗi nữa.
Giữa tuổi thiếu niên (lớp 7-8): Quan hệ thay đổi, xuất hiện tính ngượng ngùng, e thẹn, nhút nhát. Các em quan tâm đến nhau một cách e dè, kín đáo, chứ không thô thiển như trước. Một số em vẫn còn bộc lộ một cách trực tiếp, còn lại đa số các em ra sức che đậy tình cảm của mình bằng thái độ dửng dưng thờ ơ giả tạo, ra vẻ “chê bai” đối với người khác giới.
Cuối tuổi thiếu niên (lớp 8-9): Xuất hiện những nhóm bạn hỗn hợp, chơi chung cả trai lẫn gái. Ở một số em đã xuất hiện tình bạn thân thiết giữa Nam và nữ, những rung cảm giới tính đầu đời, nhưng các em cố gắng che giấu để không ai biết. Xuất hiện kiểu quan hệ “yêu đương – bạn bè” ở mức độ thấp.
Trong tình bạn khác giới, các em vừa hồn nhiên, trong sáng, vừa có vẻ thận trọng, kín đáo, có ý thức rõ rệt về giới tính của bản thân. Những rung động giới tính này nhiều lúc chỉ thoáng qua rồi tan biến, nhưng cũng có trường hợp nảy sinh những tình cảm khá bền vững, đôi lúc sóng gió rồi lại ổn định ghi lại nhiều dấu ấn khó phai. Nhìn chung, những xúc cảm giới tính của các em là thường trong sáng, là động lực thúc đẩy các em tự hoàn thiện mình. Nhưng không phải tất cả thiếu niên đều có những rung cảm mang màu sắc trong sáng như vậy. Một số em bị cuốn hút vào con đường “yêu đương sớm”. Nhiều khi các em cũng không hiểu rõ tình cảm của mình và để nó chi phối đến kết quả học tập. Người làm công tác giáo dục cần phải thận trọng, tế nhị, khéo léo khi giải quyết vấn đề này. cần hướng dẫn, uốn nắn để tình bạn giữa Nam và nữ ở lứa tuổi này thật lành mạnh, trong sáng và nó động lực để giúp nhau trong học tập, trong tu dưỡng. Không nên can thiệp thô bạo, dùng các biện pháp bạo lực, áp đặt đối với các em…
Như vậy, hoạt động giao tiếp nói chung và hoạt động giao tiếp mang tính chất thân tình của thiếu niên là hoạt động chủ đạo có ý nghĩa đặc biệt trong sự hình thành và phát triển nhân cách của thiếu niên. Nội dung của nó là cải tạo lại những mối quan hệ cũ và xây dựng nên những mối quan hệ mới. Nhờ hoạt động giao tiếp mà các em nhận thức được người khác và bản thân mình rõ hơn, đồng thời qua đó phát triển một số kỹ năng sống làm phong phú thêm cuộc sống của các em. Vì thế, người lớn nên tạo điều kiện để các em được giao tiếp với nhau, quan tâm, hướng dẫn, định hướng giá trị tình bạn, tình yêu đúng đắn cho các em.
c. Giao tiếp của thiếu niên với các em nhỏ
Khi giao tiếp với các em nhỏ tuổi hơn, thiếu niên muốn thể hiện tính người lớn của mình bằng cách chăm sóc, dạy dỗ, bảo ban các em. Các em biết nhường nhịn, chiều chuộng các em nhỏ. Tuy vậy, khi tính trẻ con trỗi dậy các em lại sẵn sàng chọc ghẹo và phá phách các em nhỏ, thậm chí bắt nạt các em. Trong giao tiếp với các em nhỏ, thiếu niên được bộc lộ nhu càu độc lập, nhu cầu tự khẳng định mình.
3. Đặc điểm hoạt động nhận thức của thiếu niên
Thiếu niên chập chững bước vào thế giới mới, thế giới của người lớn với bao điều các em chưa được biết, vì vậy các em rất thích khám phá, óc tò mò, ham hiểu biết tăng lên nhanh chóng.
Đặc trưng nổi bật trong hoạt động nhận thức của thiếu niên là tính mục đích, tính chủ định phát triển mạnh trong tất cả các quá trình nhận thức: tri giác, trí nhớ, chú ý, tư duy, tưởng tượng.
3.1. Tri giác
Tri giác có chủ định dần thay thế tri giác không chủ định. Các loại tri giác không gian, thời gian, tri giác vận động, tri giác con người phát triển mạnh. Chất lượng khi tri giác đối tượng tăng lên rõ rệt. Thiếu niên tri giác có trình tự, có mục đích, có kế hoạch và hoàn thiện hơn so với nhi đồng. Khả năng phân tích và tổng hợp cũng tăng cao, khả năng quan sát cũng phát triển mạnh, trở thành một thuộc tính ổn định của cá nhân.
Tuy vậy, khi tri giác các em cũng còn nhiều hạn chế như: hấp tấp, vội vàng, tính tổ chức, tính hệ thống trong tri giác còn nghèo. Vì vậy, giáo viên cần chú ý rèn luyện khả năng quan sát cho các em thông qua các giờ giảng lý thuyết và thực hành, cùng các hoạt động ngoại khóa,…
3.2. Trí nhớ
Trí nhớ có chủ định nổi bật lên, trí nhớ từ ngữ – logic phát triển mạnh. Các quá trình cơ bản của trí nhớ được điều khiển có vi hoạch, có tổ chức. Ghi nhớ máy móc dần nhường chỗ cho ghi nhớ có mục đích, có ý nghĩa, logic. Khả năng ghi nhớ tăng, thủ thuật ghi nhớ phát triển, các em biết lập dàn ý, tách ý để ghi nhớ, biết gắn kết các tài liệu cũ và mới, biết sử dụng các phương pháp ghi nhớ và tái hiện, biết áp dụng các thao tác tư duy để ghi nhớ và tái hiện tài liệu chính xác và hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, ghi nhớ của thiếu niên cũng còn nhiều mâu thuẫn và thiếu sót. Mặc dù các em có khả năng ghi nhớ có ý nghĩa song vẫn tùy tiện trong ghi nhớ, khi gặp khó khăn lại từ bỏ ghi nhớ có ý nghĩa. Các em cũng chưa hiểu đúng vai trò của ghi nhớ máy móc, coi đó là học vẹt nên xem thường, vì thế không nhớ được tài liệu chính xác. Các em có khuynh hướng muốn tái hiện tài liệu bằng ngôn n gữ của chính mình, chống lại yêu cầu của giáo viên khi giáo viên bắt học thuộc lòng từng câu chữ, tuy nhiên nếu chưa thuần thục trong cách ghi nhớ và tái hiện có ý nghĩa các em rất dễ mắc sai sót. Vì vậy, giáo viên cần phải hướng dẫn các em phương pháp và cách thức ghi nhớ logic đúng đắn và hiệu quả (phân đoạn theo ý nghĩa, lập dàn ý, tách ý làm điểm tựa…).
3.3. Tư duy
Tư duy trừu tượng phát triển mạnh là nét đặc thù trong sự phát triển tư duy của thiếu niên. Đầu cấp trung học cơ sở, tư duy hình tượng – cụ thể vẫn tiếp tục phát triển, giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc của tư duy. Sang các lớp cuối cấp, tư duy trừu tượng phát triển mạnh mẽ. Khả năng phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa và khái quát hóa phát triển mạnh. Khả năng hiểu được các khái niệm không gian và thời gian một cách chính xác hơn, hiểu và sử dụng được các kí hiệu, biểu tượng, ẩn dụ,… Các em có khả năng phân tích tài liệu tương đối đầy đủ, sâu sắc, biết phân biệt những dấu hiệu bản chất và không bản chất, nhận biết được những mối liên hệ, quan hệ của sự vật hiện tượng, tuy nhiên cũng có nhiều em còn hay nhầm lẫn. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, thiếu niên nắm được dấu hiệu bản chất của đối tượng, nhưng có lúc không phân biệt được dấu hiệu đó trong tất cả các trường hợp cụ thể. Ví dụ: chưa nhận biết được tam giác vuông, khi góc vuông ở phía trên và cạnh huyền ở phía đáy của tam giác.
Khả năng suy luận của thiếu niên tương đối hợp lý và có cơ sở. Khác với tuổi nhi đồng, thiếu niên phân tích nhiệm vụ trí tuệ bằng cách tạo ra những giả thuyết khác nhau, và kiểm tra các giả thuyết này (ví dụ như trong môn toán). Tư duy bằng các giả thuyết là công cụ đặc biệt của suy luận khoa học.
Tư duy của thiếu niên có căn cứ. Các em đã biết vận dụng các thao tác tư duy một cách linh hoạt, biết lập luận giải quyết vấn đề một cách có cơ sở, biết vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, có khả năng phân biệt cái đúng cái sai, có khả năng hiểu vấn đề, đi sâu vào bản chất vấn đề.
Tính phê phán của tư duy phát triển, các em không dễ tin như tuổi nhi đồng, đôi khi các em phát hiện ra cái sai của thầy cô, biết nhận xét lời nói của thầy cô, biết đề ra những thắc mắc và muốn được giải đáp đến cùng.
Tính độc lập và sáng tạo trong tư duy được hình thành và phát triển cũng là một đặc điểm quan trọng trong sự phát triển tư duy của thiếu niên. Các em muốn độc lập lĩnh hội tri thức, muốn giải quyết bài tập, nhiệm vụ theo những quan điểm, lập luận, cách diễn đạt riêng, không thích rập khuôn như tuổi nhi đồng.
Thiếu niên ưa lập luận và hay cãi lý với người lớn. Tuy nhiên trong tư duy còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, các em có suy nghĩ nhưng nhiều lúc không thể diễn đạt một cách trôi chảy, thấu đáo những suy nghĩ của mình.
Trên thực tế, tư duy của thiếu niên phát triển không đồng đều. Có những em phát triển tư duy đạt chuẩn của độ tuổi, có những em tư duy còn bộc lộ một số hạn chế: một số em thuộc bài nhưng không hiểu bài, một số em nhận biết dấu hiệu bên ngoài của khái niệm dễ hơn bản chất của nó, các em hiểu được dấu hiệu bản chất của khái niệm nhưng nhiều lúc chưa phân biệt được nó trong những hoàn cảnh khác nhau, một số em hay gặp khó khăn khi phân tích mối liên hệ nhân quả…
Từ những đặc điểm trên, giáo viên cần lưu ý phát triển tư duy trừu tượng cho thiếu niên để làm cơ sở cho việc lĩnh hội khái niệm khoa học trong chương trình học tập. Chỉ dẫn cho các em những biện pháp để rèn luyện các kỹ năng tư duy, ví dụ kỹ năng suy nghĩ độc lập và có phê phán…
3.4. Tưởng tượng
Tưởng tượng có chủ định ở thiếu niên phát triển mạnh, khả năng sáng tạo các hình ảnh mới trong tưởng tượng rất đa dạng óc tưởng tượng vô cùng phong phú. Trong đời sống, các em có nhiều ước mơ đẹp nhưng còn mang tính viển vông, xa rời thực tế. Nhiều em mơ ước mình sẽ trở thành những người anh hùng, những người nổi tiếng. Các em trai thích chơi game, xem phim, đọc truyện,… “thần tượng hóa” các nhân vật. Các em có thể đắm mình trong các trò chơi, tưởng tượng mình là các nhân vật trong game, trong truyện, xây dựng cho mình một thế giới “ảo” để thỏa mãn những gì mà các em đang khao khát, những gì mà thực tế không mang đến cho các em.
Các em đã biết xây dựng cho mình những mẫu hình lý tưởng (người anh hùng, người nổi tiếng…) nhưng còn mang tính viển vông, xa rời thực tế. Cuối tuổi, mẫu hình lý tưởng mới trở nên thiết thực hơn, có tác dụng thúc đẩy các em vươn tới.
3.5. Chú ý
Chú ý có chủ định được tăng cường. Các thuộc tính cơ bản của chú ý phát triển về chất so với tuổi nhi đồng. Sức tập trung chú ý cao hơn, lâu hơn. Sự phân tán chú ý ít hơn, khả năng duy trì chú ý được bền vững hơn.
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy ở thiếu niên khối lượng chú ý tăng lên rõ rệt, khả năng di chuyển chú ý từ đối tượng này sang đối tượng khác, từ thao tác này sang thao tác khác, từ hoạt động này sang hoạt động khác được tăng cường rõ rệt. Các em có thể đang học môn này chuyển sang môn học khác mà vẫn tập trung chú ý vào học tập như bình thường.
Chú ý của thiếu niên thể hiện tính lựa chọn rất rõ. Sự lựa chọn phụ thuộc vào tính chất đối tượng và mức độ hứng thú của các em với đối tượng đó. Vì thế ở giờ học này các em không thích, các em không chú ý, hay đãng trí, không tập trung, nhưng ở giờ học khác, các em hứng thú thì lại làm việc rất nghiêm túc, tập trung chú ý cao độ.
Tuy nhiên, sự phát triển chú ý của thiếu niên diễn ra rất phức tạp, có mâu thuẫn. Một mặt, chú ý có chủ định của các em phát triển mạnh, bền vững. Mặt khác, những ấn tượng và rung động mạnh mẽ, phong phú lại làm cho chú ý của các em không bền vững. Điều đó phụ thuộc nhiều vào điều kiện học tập, nội dung tài liệu, tâm trạng, thái độ của các em đối với việc học. Vì vậy, giáo viên cần tổ chức giờ học sao cho có nội dung phù hợp, khơi gợi được hứng thú, kích thích được tính tích cực, chủ động trong học tập ở các em.
3.6. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ của thiếu niên phát triển mạnh, vốn từ tăng lên rõ rệt, đặc biệt vốn từ khoa học. Khả năng nói, viết, sử dụng ngữ pháp đúng hơn. Các em thích nói những từ trào phúng, từ lóng,… Nhiều em có thể làm thơ, viết những truyện ngắn có giá trị.
Tuy nhiên, ngôn ngữ của thiếu niên cũng còn hạn chế: khả năng dùng từ để diễn đạt ý nghĩ còn hạn hẹp, nhiều chỗ dùng từ chưa chính xác, nhiều em viết lách còn cẩu thả, sai chính tả, sai ngữ pháp. Một số em còn thích dùng những từ hoa mĩ, bóng bẩy, nhưng sáo rỗng, một số em thích sử dụng từ dung tục,…
Vì vậy, giáo viên cũng cần chú ý phát triển cả ngôn ngữ cho các em.
4. Đặc điểm đời sống xúc cảm – tình cảm của thiếu niên
Đời sống xúc cảm – tình cảm của thiếu niên phát triển mạnh, dần hình thành nên những loại tình cảm cấp cao đa dạng, phong phú, có chiều sâu. Xúc cảm – tình cảm mang tính bồng bột dần giảm đi, nhường chỗ cho các loại xúc cảm – tình cảm biết phục tùng ý chí. Xúc cảm – tình cảm có nhiều thay đổi cả về nội dung và các hình thức biểu hiện so với tuổi nhi đồng.
Về nội dung, các mức độ của đời sống xúc cảm- tình cảm phát triển mạnh, dần hình thành các loại tình cảm cấp cao, được củng cố và phát triển sâu sắc hơn theo năm tháng.
Các loại tình cảm đạo đức: tình cảm gia đình, tình cảm bạn bè (tình bạn cùng giới, tình bạn khác giới), tình cảm tập thể,… phát triển mạnh. Trong tình cảm đối với cha mẹ, các em hiểu được công lao cha mẹ, có ý thức phụ giúp cha mẹ. Trong tình cảm anh – em, trẻ em có ý thức nhường nhịn, yêu thương nhau. Trong tình cảm đối với bạn bè, trẻ em biết giúp đỡ nhau, chia sẻ những tâm tình. Nói chung thiếu niên yêu mẹ, kính cha, yêu bạn bè, yêu thần tượng, yêu bản thân, yêu con người,…, hết lòng với người mình thương. Đặc biệt, lòng yêu nước., tình yêu thương con người được phát triển. Nhiều thiếu niên đã không quản ngại khó khăn, sẵn lòng giúp đỡ mọi người, thậm chí đã có em dám hi sinh cả tính mạng mình vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì người thân, bạn bè và các em thơ. Nhiều tấm gương dũng cảm, sáng chói ở tuổi thiếu niên đã xuất hiện (thời chống Pháp có Kim Đồng, Vừ A Dính…; thời chống Mỹ có Kơ-pa-kơ-lơng, Hồ Văn Mên,… ờ miền Nam, Nguyễn Bá Ngọc, Nguyễn Đỗ Hùng,… ở miền Bắc. Thời nay, có em đã dũng cảm nhảy xuống hồ nước để cứu người. Chẳng hạn như Phạm Văn Vĩnh, học sinh lớp 7A trường THCS Lý Tự Trọng, xã Bình Thạnh, huyện Đức Trọng, Lâm Đồng đã cứu được 4 bạn nhỏ đang chới với dưới hồ rước sâu ven sông. Huyện Đoàn Đức Trọng đã động viên khen thưởng về tấm gương dũng cảm cứu người của Vĩnh. Em còn dược tinh đoàn Lâm Đồng tuyên dương và trao bằng khen chiến sĩ nhỏ Trần Quốc Toản. Ngày 29/4/2005 Trần Văn Duy sinh năm 1992, học sinh lớp 6C đã nhảy xuống ao cứu 3 em nhỏ là con em của các gia đình công giáo ở xóm Yên Đồng xã Hưng Thịnh huyện Hưng Nguyên….). Đó thực sự là những tấm gương tiêu biểu về sự hy sinh và lòng dũng cảm ở tuổi thiếu niên.
Trong tình cảm trí tuệ, những rung động liên quan đến nhu cầu nhận thức, nhu cầu khám phá, phát hiện cái mới được phát triển, vượt ra khỏi lĩnh vực học tập và trường học, đem lại cho thiếu niên nhiều trải nghiệm cảm xúc khác nhau.
Trong tình cảm thẩm mỹ, quan niệm về cái đẹp của thiếu niên phong phú, sâu sắc hơn tuổi nhi đồng. Nhiều em đã có những sáng tác về thơ văn, hội họa, âm nhạc có giá trị, bộc lộ tình cảm với cái đẹp trong cuộc sống.
Về hình thức biểu hiện, cũng rất đa dạng, nhiều mâu thuẫn, dễ thay đổi
Điểm đặc trưng trong các biểu hiện của đời sống tình cảm -riêng các phương diện sinh lý, nhận thức, hành vi là tính mâu thuẫn, chưa ổn định, dễ thay đổi. Các trạng thái xúc cảm – tình cảm thường có cường độ khá mạnh, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, các xúc cảm tích cực và tiêu cực nhanh chóng thay thế nhau.
Biểu hiện sinh lý: Thiếu niên dễ mất cân bằng, dễ bị kích : động, hay xúc động,… Những biểu hiện sinh lý thường theo hướng xung động, quyết liệt khi không được đáp ứng nhu cầu.
Biểu hiện trên phương diện nhận thức: Thiếu niên nhận biết được các xúc cảm – tình cảm của bản thân, có thái độ nhất định đối với những tình cảm của bản thân, biết kiềm chế bản thân. Thiếu niên đã có thể ý thức được các tình cảm của mình và dùng ngôn ngữ mô tả lại các trải nghiệm đó một cách khá chính xác. Đây cũng là một nét mới trong tình cảm của thiếu niên, giúp các nhà giáo dục có thể phân tích được tình cam của thiếu niên đang ở mức độ nào. Tất nhiên, trong nhận thức của thiếu niên cũng còn nhiều mâu thuẫn, dễ thay đổi.
Biểu hiện hành vi, cử chỉ, điệu bộ: Tất nhiên, xúc cảm – tình cảm còn nhiều mâu thuẫn thì biểu hiện của xúc cảm – tình cảm trên phương diện hành vi, cử chỉ, điệu bộ cũng hay thay đổi. Thiếu niên vừa vui đó, rồi buồn đó, khi vui thì ồn ào náo nhiệt, khi buồn thì ủ rũ, lặng thinh. Đối với cha mẹ, vừa mới biểu hiện “ngoan” đó, rồi lại “hư đó.
Như vậy, trong đời sống xúc cảm – tình cảm ở tuổi thiếu niên đang hình thành phát triển mạnh mẽ các loại tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm đạo đức, tình cảm tập thể đặc biệt là tình bạn. Tuy nhiên, xúc cảm – tình cảm của đa số thiếu niên có cường độ khá mạnh, chưa ổn định, còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn và dễ thay đổi. Vì vậy, khi giáo dục xúc cảm – tình cảm cho thiếu niên nhà giáo dục cần tránh tạo ra những cơn xúc động mạnh ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của thiếu niên, cần tôn trọng những nhu cầu và mong muốn chính đáng của thiếu niên, tôn trọng xúc cảm – tình cảm của thiếu niên, tổ chức, hướng dẫn giúp đỡ để thiếu niên có đời sống xúc cảm – tình cảm lành mạnh, phong phú.
5. Đặc điểm nhân cách của thiếu niên
Ngoài hai nét cấu tạo tâm lý mới đặc trưng cho sự phát triển nhân cách thiếu niên là “cảm giác mình là người lớn” được biểu hiện rõ trong xu hướng vươn lên làm người lớn và “nguyện vọng hòa mình vào tập thể, tìm một chỗ đứng, trong lòng tập thể” thì sự phát triển nhân cách thiếu niên còn có những điểm nổi bật sau:
5.1. Sự hình thành tự ý thức của thiếu niên
Tự ý thức được hình thành từ trước tuổi thiếu niên. Khoảng 3 tuổi, trẻ bắt đầu tách được mình ra khỏi thế giới xung quanh, tích cực nhận thức về bản thân và có những hành động thể hiện “cái tôi” ở mức độ thấp. Trẻ bắt đầu ý thức được bản thân mình thông qua sự nhận thức các đặc điểm bên ngoài của bản thân (mắt, mũi, chân tay,…), trẻ biết đánh giá hành vi của mình là “ngoan” hay “hư” dựa theo nhận xét của người khác về mình, bắt đầu tìm cách kiểm soát cảm xúc của bản thân: biết nhíu mày, mím môi hay cố gắng kìm nén tức giận,… Trong hành động, trẻ bắt đầu thể hiện nhu cầu độc lập, để “con tự làm”, “con tự mặc áo”,… ‘‘Con tự” như là tiếng cửa miệng của trẻ, và đây chính là thời điểm thích hợp để giáo dục tính tự lập cho trẻ. cũng từ nguyện vọng được độc lập, ở trẻ lên 3 bắt đầu xuất hiện nhu cầu tự khẳng định như là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy trẻ phát triển về mọi mặt và cũng là dấu hiệu báo trước một nhân cách đang được hình thành.
Tự ý thức tiếp tục được hình thành và phát triển dần dần thông qua tuổi mẫu giáo, tuổi nhi đồng, nhưng mức độ cũng chưa cao. Chỉ đến thời điểm cuối tuổi nhi đồng, bước sang tuổi thiếu niên, tự ý thức của trẻ mới được hình thành và bộc lộ rõ nét với đầy đủ cấu trúc và ý nghĩa của nó. cấu trúc tự ý thức về bản thân bao gồm sự tự nhận thức, tự đánh giá và tự giáo dục bản thân.
Tự nhận thức về bản thân của thiếu niên
Xu hướng vươn lên làm người lớn, cảm giác mình là người lớn đã tác động mạnh mẽ đến thiếu niên làm các em nảy sinh nhận thức mới. Đó là nhận thức về sự trưởng thành của bản thân. Cảm giác về sự trưởng thành khiến các em quan tâm nhiều hơn đến bản thân, tìm hiểu những phẩm chất và năng lực riêng của bản thân cũng như của người khác, quan tâm đến những xúc cảm – tình cảm mới, những mối quan hệ giữa người – người (đặc biệt quan hệ Nam – nữ), quan tâm đến vị thế của mình trong xã hội, từ đó hình thành nên một hệ thống giá trị hướng đến thế giới của người lớn, cố gắng bắt chước người lớn về mọi phương diện từ vẻ bên ngoài đến cung cách ứng xử,…
Nội dung và mức độ tự nhận thức về bản thân của thiếu niên không diễn ra cùng lúc. Đầu tiên các em nhận thức được dáng vẻ bề ngoài (mập, ốm, đẹp, xinh, xấu,., quan tâm đến cách ăn mặc), rồi đến các hành vi của mình (đang học, đang chơi,…). Tiếp theo, các em nhận thức được các phẩm chất đạo đức, tính cách và năng lực riêng của mình trong các phạm vi hoạt động khác nhau (chủ yếu là các phẩm chất đơn lẻ dễ nhận thấy như: chăm chỉ, kiên trì,… trong học tập; trong sinh hoạt: cẩu thả, bừa bộn hay cẩn thận, gọn gàng,…), rồi đến những phẩm chất thể hiện thái độ đối với người khác (ân cần, cởi mở, yêu thương bạn bè, cha mẹ,…), tiếp đến là những phẩm chất thể hiện thái độ đối với bản thân (nghiêm khắc hay dễ dãi với bản thân, khiêm tốn hay là khoe khoang,…). Cuối tuổi thiếu niên có thể nhận biết được những phẩm chất phức tạp thể hiện mối quan hệ nhiều mặt của nhân cách (tinh thần trách nhiệm, lương tâm, danh dự, lòng tự trọng cá nhân,…).
Cùng với sự trưởng thành của hệ sinh dục, thiếu niên quan tâm nhiều hơn đến việc tìm hiểu vai trò và chuẩn mực về giới hơn so với nhi đồng. Cuối tuổi thiếu niên, các em đã có khả năng nhận biết nhân dạng giới tính của mình và lựa chọn các hình thức thể hiện giới tính một cách khá phù hợp từ cách ăn mặc đến các phẩm chất giới tính. Chẳng hạn, con gái ăn mặc phải khác con trai. Con gái thì phải dễ thương, dịu dàng, nói năng nhỏ nhẹ, đi đứng nhẹ nhàng, “yếu điệu thục nữ”,…, con trai thì phải mạnh mẽ, ngổ ngáo, can đảm,… Sự nhận thức và thể hiện bản sắc giới tính chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: sinh học, cha mẹ, thầy cô, truyền thông, bạn bè, và sự tích cực của bản thân các em. Bạn bè có ảnh hưởng rất lớn đến hành vi và thái độ giới tính của các em. Những hành vi không phù hợp với giới tính thường ít được bạn bè chấp nhận và hay bị đem ra chế giễu. Đa số các em đã có khả năng nhận biết và thể hiện bản thân đồng nhất với giới tính của mình, tuy nhiên cũng có một số em vẫn còn bỡ ngỡ trên con đường tìm kiếm nhân dạng giới tính của bản thân. Khả năng đồng nhất với giới tính cũng là một nét cấu tạo tâm lý mới đặc trưng trong nhân cách của thiếu niên.
Nhìn chung, tự nhận thức bản thân về mọi mặt ở thiếu niên vẫn còn nhiều mâu thuẫn, chẳng hạn mâu thuẫn giữa mong muốn được hiểu biết nhiều với trình độ, khả năng còn hạn chế. Các em thấy mình nhận thức vẫn chưa đầy đủ, cảm thấy mình vẫn còn yếu kém về nhiều mặt nhưng không muốn bị giáo dục, bị coi thường.
Tự đánh giá của thiếu niên
Từ sự tự nhận thức về bản thân và người khác, các em xuất hiện nhu cầu đánh giá bản thân, đánh giá người khác, so sánh mình với người khác để tìm ra những ưu, nhược điểm của bản thân: “Tôi… như vậy đã được chưa? Tôi hơn người khác cái gì? Thua người khác những gì?…”. Các em có ý thức hơn với suy nghĩ của bản thân, biết rung cảm với những hành vi của mình ‘Bây giờ em bắt đầu nghĩ về mình, em bắt đầu đối xử với bản thân khá hơn, em muốn được trở nên tốt hơn, đôi khi lại căm giận bản thân vì một vài hành động” (13 tuổi). Các em biết đánh giá và phê phán bản thân, biết xấu hổ, tỏ ra hối hận, muốn phục Thiện khi nhận thức được mình đã làm điều gì đó sai trái “Em tự nhủ là mình sẽ không như thế nữa” (14 tuổi). Đây là một đặc năm mới trong tự đánh giá ở tuổi thiếu niên
Đầu tuổi thiếu niên (học sinh lớp 6 – 7), sự tự đánh giá của các em thường lấy chuẩn từ người khác, dựa vào sự nhận xét đánh giá của người khác, đặc biệt là những người có uy tín, gần gũi các em. Cuối tuổi thiếu niên (học sinh 8 – 9), các em hình thành khả năng độc lập phân tích và đánh giá bản thân và người khác. Các em thường đánh giá bản thân khi so sánh mình với các bạn cùng tuổi mà các em ưa thích.
Khả năng tự đánh giá bản thân của thiếu niên còn nhiều hạn chế, dễ rơi vào tình trạng tự kiêu hoặc tự ti. Các em muốn tự đánh giá nhưng do khả năng tự nhận thức bản thân còn nhiều hạn chế, nên chưa đủ khả năng để phân tích thấy hết những ưu, nhược điểm của bản thân. Các em rất nhạy cảm với những nhận xét của người khác, đặc biệt là những nhận xét về khả năng, về sự thành công hay thất bại của các em. Các em thường có xu hướng đánh giá mình cao hơn hiện thực trong khi người lớn lại đánh giá thấp khả năng của các em. Nhiều lúc. các em không muốn nghe lời nhận xét, đánh giá của người lớn về mình. Vì vậy, người lớn nên thận trọng với lời nhận xét đánh giá của mình để giúp các em tự đánh giá bản thân chính xác hơn.
Cùng với tự đánh giá bản thân, đánh giá về người khác cũng phát triển mạnh ở thiếu niên. Sự đánh giá của các em thường được thể hiện một cách kín đáo. bí mật, khắt khe. Các em dễ nhận ra những khuyết điểm của người khác hơn bản thân mình. Các em thường đánh giá người khác một cách phiến diện thông qua các hành vi đơn lẻ. Đối với các em đó là người tốt hoặc người xấu chứ không có chuyện vừa có mặt tốt, vừa có mật xấu trong cùng một con người. Thông qua sự (đánh giá người khác, thiếu niên có thể tìm thấy những hình mẫu lý tưởng để phấn đấu, noi theo.
Tuổi thiếu niên cũng là lứa tuổi bắt dầu hình thành quan điểm riêng, lý tưởng, niềm tin. Các em bắt đầu có khả năng nhận xét, đánh giá về hệ thống giá trị, về các chuẩn mực đạo đức, so sánh nó với những trải nghiệm thực tế, từ đó hình thành những quan điểm riêng. Đây cũng là một cấu tạo tâm lý mới đặc trưng của thiếu niên. Tuy nhiên, các giá trị, chuẩn mực đạo đức của thiếu niên chưa có nền tảng vững chắc, do thiếu niên chưa hình thành thế giới quan khoa học, nên dễ thay đổi, nhất là dưới tác động của bạn bè. Hơn nữa, nhiều giá trị đạo đức của các em được hình thành tự phát nên có thể có những ngộ nhận, hiểu biết phiến diện, không chính xác về một số giá trị đạo đức dẫn đến sự phát triển những nét tiêu cực trong tính cách. Vì vậy, người làm công tác giáo dục nên chú ý đến điểm này.
Tự giáo dục bản thân của thiếu niên
Do khả năng tự nhận thức, tự đánh giá phát triển, ở thiếu niên đã hình thành một phẩm chất quan trọng của nhân cách là sự tự giáo dục. Ở những thiếu niên lớn, các em đã có thái độ đối với sự tiến bộ của bản thân, kiểm tra bản thân, cảm thấy không hài lòng nếu chưa đạt được mục đích đã đề ra. Các em tự tác động đếnbản thân, tự giáo dục ý chí, tự tìm tòi những chuẩn mực nhận định, đê cho mình những mục tiêu, những kế hoạch để tự tu dưỡng, rèn luyện bản thân.
Tuy nhiên, sự tự giáo dục của các em cũng còn nhiều hạn chế: một số em chưa có khả năng xác lập mục tiêu, một số em cũng chưa có ý thức tự giáo dục bản thân, một số em còn hay nhầm lẫn giữa các giá trị,…
Nguyên nhân chính thúc đẩy sự hình thành và phát triển tự ý thức của thiếu niên là sự cảm nhận về sự trưởng thành của bản thân, “cảm nhận mình là người lớn”, xu hướng vươn lên làm người lớn, nhu cầu tìm kiếm một vị trí trong gia đình, nhà trường, xã hội. Đặc biệt, thiếu niên khao khát có một vị trí trong lòng bạn bè, được bạn bè yêu thương và tôn trọng.
Ý nghĩa của tự ý thức đối với thiếu niên
Sự hình thành tự ý thức cùng nét tâm lý điển hình trong sự phát triển nhân cách thiếu niên. Biểu hiện và mức độ biểu hiện của tự ý thức phát triển sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống tâm lý của thiếu niên, đến tính chất hoạt động cùng các mối quan hệ của thiếu niên. Trên cơ sở nhận thức và đánh giá bản thân, các em mới có khả năng điều khiển, điều chỉnh hành vi của bản thân cho phù hợp với yêu cầu khách quan, mới giữ được quan hệ, có được vị trí xứng đáng trong xã hội, trong nhóm bạn, trong lớp học.
Tự ý thức còn có ý nghĩa lớn lao ở chỗ, nó thúc đẩy thiếu niên bước vào một giai đoạn mới. Từ tuổi thiếu niên trở đi, khi sự tự giáo dục phát triển, các em không chỉ là khách thể của giáo dục mà còn là chủ thể của sự giáo dục. Đây cũng là một điều kiện thuận lợi cho công tác giáo dục các em. Vì vậy, người làm giáo dục nên hướng dẫn, động viên, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho tự ý thức của các em phát triển, khi đó tự giáo dục của thiếu niên sẽ hỗ trợ đắc lực cho giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội, làm cho giáo dục đạt hiệu quả tối ưu.
5.2. Sự hình thành ý chí của thiếu niên
Cùng với sự phát triển của tự ý thức, ở thiếu niên nảy sinh khát vọng tự tu dưỡng rèn luyện cho mình các phẩm chất ý chí (tính độc lập, tính kiên trì, lòng dũng cảm, nghị lục vượt khó,…). Các em xem việc giáo dục ý chí, tự tu dưỡng như là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của bản thân, đặc biệt là các em Nam. Nhiều em chú ý phân tích các hành động của bản thân, viết nhật ký để tự tu dưỡng bản thân. Nhiều em con nhà nghèo, thật nghèo vẫn vượt khó để học tập và luôn đạt học sinh giỏi,…
Tuy nhiên, sự tự giáo dục ý chí của các em vẫn còn nhiều thiếu sót: nhiều em chưa hiểu đúng về các phẩm chất ý chí, chưa phân biệt được sự khác nhau giữa độc lập với bướng bỉnh, lì lợm với kiên trì, táo bạo với can đảm, liều lĩnh với dũng cảm,… Một số em đôi khi tỏ ra thiếu bình tĩnh, thô lỗ trong ứng xử với người lớn, với bạn bè, một số em rèn luyện ý chí trong những điều kiện khắt khe như: đi nắng không đội mũ, bị bệnh không uống thuốc, chui vào bụi rậm, nhảy qua hàng rào, ăn trộm táo nhà hàng xóm, tổ chức các cuộc thi thố như nhảy từ trên cao xuống sông,… Bởi vậy, người lớn cần giúp thiếu niên hiểu rõ những phẩm chất ý chí và định hướng sự rèn luyện ý chí cho các em, giúp các em phấn đấu theo những phẩm chất ý chí tích cực để hình thành và phát triển nhân cách tốt đẹp.
5.3. Sự phát triển hứng thú của thiếu niên
So với nhi đồng, hứng thú của thiếu niên được phát triển mạnh hơn cả về chiều rộng, lẫn chiều sâu. Phạm vi hứng thú được mở rộng ra ngoài xã hội, vượt khỏi phạm vi học tập trong nhà trường; và cuộc sống trong gia đình. Trong học tập các em có hứng thú với một số môn học, có xu hướng quan tâm đến những môn được cho là quan trọng. Trong đời sống, nhiều em thích đọc truyện (truyện tranh, truyện văn học, truyện phiêu lưu mạo hiểm,…), xem phim, vào mạng chơi game,… thậm chí có em thích đọc cả sách báo, xem phim, xem tranh ảnh cấm. Nhiều em say mê ca nhạc, phim ảnh, cất công sưu tầm những bài hát các em ưa thích, sưu tầm ảnh của các diễn viên, ca sĩ “thần tượng”,… Nhiều em thích hoạt động thể thao, tham gia các cuộc thi dành cho thiếu niên. Nhiều em thích sinh hoạt tập thể, hoạt động xã hội,… Một số em học sinh lớp 8 – 9 bắt đầu có hứng thú nghề nghiệp nhưng chưa suy nghĩ được, dễ thay đổi. Các em có khuynh hướng quan tâm đến những vấn đề thời sự với những kì vọng tốt đẹp và cao cả.
Hứng thú phát triển có tác dụng thúc đẩy tính tích cực của các em trong học tập, hoạt động rèn luyện và hoạt động xã hội.
Tuy nhiên, hứng thú của thiếu niên còn một số hạn chế: hứng thú còn mang tính chất tản mạn, phiến diện, dễ thay đổi; hứng thú chủ yếu thiên về hoạt động thực tiễn, có tính chất kĩ thuật đơn giản; hứng thú bước đầu thiết thực, gắn với đời sống nhưng vẫn còn bay bổng, thiếu thực tiễn, mong muốn được hoạt động ở nhiều lĩnh vực nhưng không quan tâm đến khả năng đạt được hoạt động đó. Do đó, cần giáo dục để các em duy trì được hứng thú và làm việc kiên trì nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
Với những thành tựu nổi bật trong sự phát triển tâm lý, tuổi thiếu niên có một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển tâm lý cá nhân. Tuổi thiếu niên được xem là thời kỳ quá độ, thời kỳ chuyển tiếp từ thế giới trẻ con sang thế giới người lớn, thời kỳ trẻ ở ngã ba đường của sự phát triển. Đây là một thời kỳ phát triển đầy khó khăn, phức tạp, nhiều biến động và khủng hoảng, nhưng cũng là thời kỳ phát triển có những bước tiến nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần, hình thành những cấu trúc tâm lý mới, tạo nên nội dung và sự khác biệt cơ bản của thiếu niên so với các lứa tuổi khác về thể chất, sinh lý, hoạt động, tương tác xã hội, tâm lý và nhân cách, từ đó hình thành những cơ sở, xu hướng phát triển chung của nhân cách, đặt nền móng cho sự trưởng thành thực sự của mỗi cá nhân.
TÓM TẮT
Tuổi thiếu niên là thời kỳ quá độ, thời kỳ chuyển tiếp từ thế giới trẻ con sang thế giới người lớn. Đây là thời kỳ phát triển đầy biến động, có sự nhảy vọt cả về thể chất lẫn tinh thần.
Sự phát triển “nhảy vọt” về thể chất, sự thay đổi điều kiện sống và hoạt động (học tập, giao tiếp,…), nhất là sự trưởng thành về mặt sinh dục và sự thay đổi vị thế trong gia đình, nhà trường, xã hội đã tạo điều kiện phát sinh nét cấu tạo tâm lý mới trung tâm của tuổi thiếu niên: “cảm giác mình là người lớn. (tược thể hiện rất rõ thông qua xu hướng vươn lên làm người lớn ở các em.
Từ cảm nhận về sự trưởng thành của bản thân, ở thiếu niên phát triển mạnh mẽ nhu cầu được độc lập, nhu cầu tự khẳng định mình, nhu cầu tìm kiếm một vị trí trong gia đình, nhà trường và xã hội, đây cũng chính là động lực giúp tự ý thức của thiếu niên được hình thành và phát triển mạnh mẽ.
Hoạt động học tập có những thay đổi cơ bản về nội dung và hình thức tạo điều kiện cho tính chủ định được phát triển mạnh trên tất cả các dạng hoạt động nhận thức của thiếu niên. Đặc biệt, tư duy trừu tượng phát triển mạnh mẽ, tạo điều kiện cho thiếu niên lĩnh hội được những tri thức lý luận, mang tính khái quát hóa cao. Đây cũng là cấu tạo tâm lý mới đặc trưng trong hoạt động nhận thức của thiếu niên.
Hoạt động giao tiếp nói chung, và đặc biệt dạng giao tiếp mang tính chất cá nhân thân tình là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi thiếu niên. Giao tiếp với người lớn được cải tổ lại, hình thành kiểu quan hệ mới dựa trên cơ sở tôn trọng và bình đẳng. Tình bạn cùng giới, tình bạn khác giới phát triển mạnh mẽ. Nhu cầu kết bạn tâm tình, tìm kiếm một chỗ đứng trong lòng bạn bè trở thành động cơ chủ lực thúc đẩy các hành động của thiếu niên.
Đời sống tình cảm của thiếu niên phong phú cả về nội dung và các hình thức biểu hiện, về nội dung, hình thành và phát triển các loại tình cảm cấp cao như tình cảm đạo đức (nhất là tình cảm gia đình và tình bạn), tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ, xuất hiện những rung cảm giới tính,… về hình thức biểu hiện còn nhiều mâu thuẫn, dễ thay đổi.
Những cấu tạo tâm lý mới đặc trưng trong nhân cách của thiếu niên là: cảm giác mình là người lớn (xu hướng vươn lên làm người lớn); nguyện vọng hòa mình vào tập thể, tìm một chỗ đứng trong lòng tập thể; tự ý thức; khả năng đồng nhất với giới tính; khả năng tự đánh giá lại các giá trị, hình thành những quan điểm riêng.)
(Theo: Giáo trình tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm)