Trang chủ Kinh tế và Kinh doanh Phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

Phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

by Ngo Thinh
Published: Last Updated on 748 views

1. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

1.1. Khái niệm phân tích hoạt động kinh doanh:

Trong xã hội tồn tại nhiều hoạt động như hoạt động chính trị, văn hoá, kinh tế, quân sự…Hoạt động kinh tế là hoạt động chủ yếu, nó có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của các hoạt động khác. Tiêu thức để phân biệt các hoạt động là căn cứ vào công dụng sản phẩm dịch vụ tạo ra và theo tính chất mục đích của hoạt động đó.

Hoạt động kinh tế là những hoạt động có ý thức nhằm tạo ra những sản phẩm dịch vụ đem lại lợi ích kinh tế nhất định.

Hoạt động kinh doanh là hoạt động kinh tế, khi việc tổ chức thực hiện hoạt động đó nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.

Trong hoạt động kinh doanh, con người luôn hướng tới mục tiêu đạt được kết quả và hiệu quả cao nhất. Muốn vậy, phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ và toàn diện các hiện tượng, các quá trình và yếu tố xảy ra trong hoạt động. Để làm được những vấn đề đó không thể không sử dụng công cụ phân tích.

Phân tích hiểu theo nghĩa chung nhất là sự chia nhỏ sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành của sự vật hiện tượng đó. Trong lĩnh vực tự nhiên, việc chia nhỏ này được tiến hành với những vật thể bằng các phương tiện cụ thể.

Ví dụ: phân tích các chất hoá học bằng những phản ứng hoá học, phân tích các loại vi sinh vật bằng kính hiển vi… Trái lại, trong lĩnh vực kinh tế – xã hội, các hiện tượng cần phân tích chỉ tồn tại bằng những khái niệm trừu tượng. Do đó, việc phân tích phải thực hiện bằng những phương pháp trừu tượng. Các Mác đã chỉ ra rằng “Khi phân tích các hình thái kinh tế – xã hội thì không thể sử dụng hoặc kính hiển vi, hoặc những phản ứng hoá học. Lực lượng của trừu tượng phải thay thế bằng cái này hoặc cái kia”

Phân tích hoạt động kinh doanh là vic phân chia các hin tượng, các quá trình và các kết quhot đng kinh doanh thành nhiu bphn cu thành, trên cơ sđó, dùng các phương pháp liên h, so sánh, đi chiếu và tng hp li nhm rút ra tính quy lut và xu hướng phát trin ca các hin tượng nghiên cu. Phân tích hoạt động kinh doanh luôn gắn liền với mọi hoạt động kinh doanh của của doanh nghiệp như những hoạt động tự giác và có ý thức cao của con người. Tuy nhiên trong điều kiện kinh doanh với quy mô và trình độ khác nhau, công việc phân tích cũng tiến hành khác nhau.

Phân tích hoạt động kinh doanh có đồng thời với các hoạt động kinh doanh của con người. Nhưng lúc ban đầu nó chỉ là những phép cộng trừ đơn giản và được tiến hành ngay trong công tác hạch toán. Khi hoạt động kinh doanh phát triển, yêu cầu quản lý kinh doanh ngày càng cao và phức tạp thì phân tích hoạt động kinh doanh cũng ngày càng phát triển để đáp ứng yêu cầu đó. Từ chỗ đơn giản chỉ là phân tích lỗ lãi của từng thương vụ, sau phát triển phân tích các yếu tố hoạt động kinh doanh và lỗ lãi của từng đơn vị, bộ phận hoạt động kinh doanh, đến nay việc phân tích hoạt động kinh doanh còn được thực hiện không chỉ phạm vi doanh nghiệp, mà đã mở rộng đến vùng kinh tế, toàn bộ nền kinh tế..

Như vậy phân tích hoạt động kinh doanh đã hình thành như một hoạt động độc lập với hệ thống lý luận độc lập và trở thành một môn khoa học độc lập. Hoạt động kinh doanh luôn được tiến hành thường xuyên liên tục rất phong phú và phức tạp. Muốn thấy được một cách đầy đủ sự phát triển của các hiện tượng, quá trình kinh doanh, từ đó thấy được thực chất hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phải đi sâu nghiên cứu kết quả và mối quan hệ qua lại của các số liệu, tài liệu bằng những phương pháp khoa học. Đó là những phương pháp nhận biết các hoạt động thực tế, các hiện tượng, các quá trình trong mối liên hệ trực tiếp với nhận thức và sự tiếp nhận chủ động của con người, trên cơ sở đó đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, tìm nguyên nhân, đề ra những giải pháp và biện pháp khai thác có hiệu quả mọi năng lực hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

1.2. Đối tượng phân tích hoạt động kinh doanh:

Trong điều kiện kinh doanh chưa phát triển, thông tin cho quản lý chưa nhiều, chưa phức tạp nên công tác phân tích được tiến hành chỉ là các phép tính cộng trừ đơn giản. Nền kinh tế ngày càng phát triển, những đòi hỏi về quản lý kinh tế quốc dân không ngừng tăng lên. Để đáp ứng nhu cầu của quản lý kinh doanh ngày càng cao, phức tạp, phân tích hoạt động kinh doanh được hình thành và ngày càng phát triển với hệ thống lý luận độc lập.

Phân tích hoạt động kinh doanh là kết quả của quá trình hoạt động kinh doanh được biểu hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế cụ thể, với sự tác động của các nhân tố ảnh hưởng.

Kết quả hoạt động kinh doanh thuộc đối tượng phân tích có thể là kết quả riêng biệt của từng khâu, từng giai đoạn của quá trình hoạt động kinh doanh như: Kết quả của khâu chuẩn bị các yếu tố đầu vào, kết quả của việc tổ chức sản xuất, kết quả của khâu tiêu thụ sản phẩm,… hoặc có thể là kết quả tổng hợp của cả một quá trình kinh doanh.

Phân tích hoạt động kinh doanh có mối liên hệ mật thiết với các môn khoa học kinh tế khác như: Các môn kinh tế ngành, thống kê, kế toán, tài chính, kế hoạch, định mức kinh tế – kỹ thuật… Khi tiến hành phân tích phải có sự liên hệ với các môn khoa học khác để nghiên cứu, phân tích được sâu sắc và toàn diện hơn. Nhiều vấn đề khi phân tích không thể tách rời với sự tác động qua lại của các môn khoa học khác.

1.3. Nội dung phân tích hoạt động kinh doanh

Hoạt động kinh doanh là một phạm trù rất rộng có liên quan đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Hoạt động này của các doanh nghiệp nước ta hiện nay thực hiện theo cơ chế hạch toán kinh doanh. Đây là một phạm trù kinh tế khách quan, thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế, giữa các tổ chức kinh tế với nhau cũng như giữa các bộ phận trong tổ chức kinh tế. Do vậy, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có mối quan hệ với các tổ chức kinh tế khác nhau và với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nó được tiến hành trong sự độc lập tương đối và sự ràng buộc phụ thuộc hữu với môi trường xung quanh. Mặt khác, hạch toán kinh doanh là một phương pháp quản lý kinh tế mà yêu cầu cơ bản là các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh, tự trang trải chi phí và đảm bảo có lợi nhuận. Để thực hiện được điều này, phân tích hoạt động kinh doanh phải thường xuyên kiểm tra đánh giá mọi diễn biễn và kết quả quá trình hoạt động kinh doanh, tìm giả pháp khai thác tiềm năng của doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Như vậy nội dung chủ yếu của phân tích hoạt động kinh doanh là các hiện tượng, các quá trình kinh doanh đã hoặc sẽ xẩy ra trong các đơn vị, bộ phận và doanh nghiệp dưới sự tác động của các nhân tố chủ quan và khách quan. Các hiện tượng, các quá trình kinh doanh được thể hiện bằng một kết quả hoạt động kinh doanh cụ thể được biểu hiện bằng các chỉ tiêu.

Kết quả hoạt động kinh doanh có thể là kết quả của từng khâu riêng biệt, cũng có thể là kết quả tổng hợp của quá trình hoạt động kinh doanh. Khi phân tích kết quả hoạt động kinh doanh phải hướng vào kết quả thực hiện các định hướng, mục tiêu và phương án đặt ra.

Trong phân tích, kết quả hoạt động kinh doanh được biểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu hiện vật, hiện vật quy ước và chỉ tiêu giá trị. Đó là sự xác định về nội dung và phạm vi của kết quả hoạt động kinh doanh. Nội dung chủ yếu của phân tích kết quả hoạt động kinh doanh là phân tích sản lượng, doanh thu hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên việc phân tích này phải luôn luôn đặt trong mối quan hệ với các yếu tố của quá trình hoạt động kinh doanh như lao động, vật tư, tiền vốn…

Phân tích hoạt động kinh doanh không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh thông qua các chỉ tiếu kết quả, mà còn phải đi sâu phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh. Thông qua việc phân tích đánh giá được kết quả đạt được, điều kiện hoạt động kinh doanh và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và từng bộ phận, từng khía cạnh, từng đơn vị nói riêng.

Để thực hiện được các nội dung trên, phân tích hoạt động kinh doanh cần phải xác định các đặc trưng về mặt lượng của các giai đoạn, các quá trình kinh doanh (số lượng, kết cấu, mối quan hệ, tỷ lệ…) nhằm xác định xu hướng và nhịp độ phát triển, xác định những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự biến động của quá trình kinh doanh, tính chất và trình độ chặt chẽ của mối liên hệ giữa kết quả kinh doanh với các điều kiện (yếu tố) kinh doanh.

1.4. Vai trò và yêu cầu của phân tích hoạt động kinh doanh

a. Vai trò của phân tích hoạt động kinh doanh

Phân tích hoạt động kinh doanh là một công cụ quả lý kinh tế có hiệu quả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường, vấn đề đặt lên hàng đầu là phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Hoạt động kinh doanh có hiệu quả mới có thể đứng vững trên thị trường, đủ sức cạnh tranh vừa có điều kiện tích luỹ và mở rộng hoạt động kinh doanh, vừa đảm bảo đời sống cho người lao động và làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá đầy đủ chính xác mọi diễn biến và kết quả hoạt động kinh doanh, những mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp trong mối quan hệ với môi trường kinh doanh và tìm mọi biện pháp để không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Việc tiến hành phân tích một cách toàn diện mọi mặt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là hết sức cần thiết và có vị trí hết sức quan trọng.

Phân tích hoạt động kinh doanh có vai trò trong việc đánh giá, xem xét việc thực hiện các chỉ tiêu phản ánh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Xem xét việc thực hiện các mục tiêu hoạt động kinh doanh, những tồn tại, nguyên nhân khách quan, chủ quan và đề ra biện pháp khắc phục nhằm tận dụng một cách triệt để thế mạnh của doanh nghiệp. Kết quả phân tích hoạt động kinh doanh là những căn cứ quan trọng để doanh nghiệp có thể hoạch định chiến lược phát triển và phương án hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả

Phân tích hoạt động kinh doanh gắn liền với quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó có vai trò và tác dụng đối với doanh nghiệp trong chỉ đạo mọi hoạt động kinh doanh của mình. Thông qua việc phân tích từng hiện tượng, từng khía cạnh của quá trình hoạt động kinh doanh, phân tích giúp doanh nghiệp điều hành từng mặt hoạt động cụ thể với sự tham gia cụ thể của từng bộ phận chức năng của doanh nghiệp. Phân tích cũng là công cụ quan trọng để liên kết mọi hoạt động của các bộ phận cho hoạt động chung của doanh nghiệp được nhịp nhàng và đạt hiệu quả cao.

Phân tích hoạt động kinh doanh không chỉ được thực hiện trong mỗi kỳ kinh doanh, mà nó còn được thực hiện trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh. Vì vậy phân tích hoạt động kinh doanh sẽ giúp các nhà đầu tư quyết định hướng đầu tư và các dự án đầu tư. Các nhà đầu tư thường quan tâm đến việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả của công tác quản lý cũng như khả năng thực hiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phân tích hoạt động kinh doanh sẽ đáp ứng những đòi hỏi này của các nhà đầu tư.

Tóm lại phân tích hoạt động kinh doanh là điều hết sức cần thiết và có vai trò quan trọng đối với mọi doanh nghiệp. Nó gắn liền với hoạt động kinh doanh, là cơ sở của nhiều quyết định quan trọng và chỉ ra phương hướng phát triển của các doanh nghiệp.

b. Yêu cầu của phân tích hoạt động kinh doanh

Muốn công tác phân tích hoạt động kinh doanh mang ý nghĩa thiết thực, làm cơ sở tham mưu cho các nhà quản lý đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình, thì công tác phân tích hoạt động kinh doanh phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:

– Tính đy đ: Nội dung và kết quả phân tích phụ thuộc rất nhiều vào sự đầy đủ nguồn tài liệu phục vụ cho công tác phân tích. Tính đầy đủ còn thể hiện phải tính toán tất cả các chỉ tiêu cần thiết thì mới đánh giá đúng đối tượng cần phân tích.

– Tính chính xác: Chất lượng của công tác phân tích phụ thuộc rất nhiều vào tính chính xác về nguồn số liệu khai thác; phụ thuộc vào sự chính xác lựa chọn phương pháp phân tích, chỉ tiêu dùng để phân tích.

– Tính kịp thời: Sau mỗi chu kỳ hoạt động kinh doanh phải kịp thời tổ chức phân tích đánh giá tình hình hoạt động, kết quả và hiệu quả đạt được, để nắm bắt những mặt mạnh, những tồn tại trong hoạt động kinh doanh, thông qua đó đề xuất những giải pháp cho thời kỳ hoạt động kinh doanh tiếp theo có kết quả và hiệu quả cao hơn.

Để đạt được các yêu cầu trên đây, cần tổ chức tốt công tác phân tích hoạt động kinh doanh phù hợp với loại hình, điều kiện, quy mô hoạt động kinh doanh và trình độ quản lý của doanh nghiệp. Tổ chức công tác phân tích phải thực hiện tốt các khâu:

+ Chuẩn bị cho quá trình phân tích

+ Tiến hành phân tích

+ Tổng hợp, đánh giá công tác phân tích

Các khâu này có những nội dung, vị trí riêng nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau, do đó cần tổ chức tốt từng bước để không ảnh hưởng đến quá trình phân tích chung

2. LOẠI HÌNH PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

– Theo thi đim phân tích:

+ Phân tích trước kinh doanh: là phân tích khi chưa tiến hành kinh doanh như phân tích dự án, phân tích kế hoạch… Tài liệu sử dụng phân tích là các bản luận chứng, bản thuyết trình về hiệu quả dự án, các bản kế hoạch. Mục đích của phân tích này nhằm dự báo, dự đoán cho các mục tiêu có thể đạt được trong tương lai, để cung cấp thông tin cho công tác xây dựng kế hoạch.

+ Phân tích hiện hành: là phân tích đồng thời với quá trình kinh doanh nhằm xác minh tính đúng đắn của phương án kinh doanh, của dự án đầu tư, của công tác kế hoạch, đồng thời điều chỉnh kịp thời những bất hợp lý trong phương án kinh doanh, trong dự án đầu tư và trong kế hoạch của doanh nghiệp .

+ Phân tích sau kinh doanh: là phân tích kết quả hoạt động kinh doanh nhằm đánh giá hiệu quả của phương án kinh doanh, dự án đầu tư, của việc hoàn thành kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, xác định những nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh.

– Theo thời hạn phân tích:

+ Phân tích nghip v(hàng ngày): nhằm đánh giá sơ bộ kết quả kinh doanh theo tiến độ thực hiện, phục vụ kịp thời cho lãnh đạo nghiệp vụ kinh doanh .

+ Phân tích định kỳ (quyết toán): là phân tích theo thời hạn ấn định trước không phụ thuộc vào thời hạn và tiến độ kinh doanh nhằm đánh giá chất lượng kinh doanh trong từng thời gian cụ thể.

– Theo nội dung phân tích gồm :

+ Phân tích chuyên đề: là phân tích vào một bộ phận hay một khía cạnh nào đó của kết quả kinh doanh như phân tích sử dụng lao động, vốn, tài sản, hiệu quả kinh doanh, hiệu quả của công tác quản lý . . .nhằm làm rõ tiềm năng, thực chất của hoạt động kinh doanh để cải tiến và hoàn thiện từng bộ phận, từng khía cạnh đó.

+ Phân tích toàn bquá trình hot đng kinh doanh: là phân tích, đánh giá tất cả mọi mặt của kết quả trong mối liên hệ nhân quả giữa chúng, xem xét mối quan hệ và tác động ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích.

– Theo phạm vi phân tích có :

+ Phân tích điển hình: là phân tích chỉ giới hạn phạm vi ở những bộ phận đặc trưng như bộ phận tiên tiến, bộ phận lạc hậu, bộ phận trọng yếu, …

+ Phân tích tổng thể: là phân tích kết quả kinh doanh trên phạm vi toàn bộ, bao gồm các bộ phận tiên tiến, bộ phận lạc hậu trong mối quan hệ với các bộ phận còn lại.

– Theo lĩnh vực và cấp quản lý:

+ Phân tích bên ngoài: là phân tích nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý cấp trên hoặc các ngành chuyên môn có liên quan như ngân hàng, tài chính, kế hoạch,…

+ Phân tích bên trong: là phân tích chi tiết theo yêu cầu của quản lý kinh doanh doanh nghiệp.

3. CƠ SỞ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

Là duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và kinh tế chính trị Mác-Lê Nin. Những đặc điểm chủ yếu về cơ sở lý luận của phân tích hoạt động kinh doanh là:

1) Nghiên cứu phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh được đặt trong mối quan hệ qua lại chặt chẽ của các hiện tượng, các quá trình kinh tế.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác đã chỉ rõ mọi hiện tượng trong xã hội đều có liên quan chặt chẽ với nhau. Trong phân tích tất cả các chỉ tiêu phải được nghiên cứu trong mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau, không được tách rời nhau. Mọi chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh đều chịu ảnh hưởng của những nhân tố xã hội, tự nhiên, kỹ thuật, tổ chức, quản lý… Vì vậy khi phân tích cần xem xét, nghiên cứu kỹ những ảnh hưởng của các nhân tố trên. Phân tích hoạt động kinh doanh không chỉ quan tâm chú trọng về mặt kinh tế, mà còn phải chú trọng tới kinh tế – kỹ thuật, vì các nhân tố kĩ thuật có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả kinh doanh, ảnh hưởng rất nhiều tới việc tổ chức sản xuất, ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng tới lao động.

2) Nghiên cứu phân tích hoạt động kinh doanh của đơn vị phải chú ý xem xét mâu thuẫn nội tại, có các biện pháp giải quyết những mâu thuẫn đó.

Khi phân tích cần phát hiện những mâu thuẫn nội tại trong các hiện tượng, các quá trình kinh doanh. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp giải quyết các mâu thuẫn đó. Có như vậy mới có thể cải tiến được công tác tổ chức quản lý kinh doanh .

Với đặc điểm thứ hai về cơ sở lý luận phân tích hoạt động kinh doanh là phải nghiên cứu những tình huống mâu thuẫn nội tại của các hiện tượng, quá trình kinh tế, kịp thời khắc phục, giải quyết mâu thuẫn đó để thúc đẩy sự phát triển của các hiện tượng, quá trình kinh tế của doanh nghiệp.

Việc giải quyết các mâu thuẫn sẽ cải tiến công tác quản lý kinh doanh nhằm đáp ứng tình hình phát triển kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế quốc dân nói chung.

3) Nghiên cứu phân tích hoạt động kinh doanh phải được tiến hành trong quá trình phát triển tất yếu của các hiện tượng, các quá trình kinh tế.

Khi nghiên cứu quá trình tăng trưởng, phát triển của doanh nghiệp “Doanh thu, lợi nhuận, sản lượng dịch vụ . . . ” cho thấy sự phát triển đó cũng như sự phát triển của nền kinh tế quốc dân không phải chỉ tăng đơn thuần về số lượng, tốc độ tăng trưởng mà còn tái sản xuất mở rộng từ thấp đến cao. Sự phát triển không ngừng này không chỉ ở một ngành nào đó mà là trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển này diễn ra như một quy luật của sự phát triển xã hội trên cơ sở các quy luật kinh tế cơ bản như quy luật giá trị, quy luật cung – cầu và quy luật cạnh tranh…

Phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là phải nghiên cứu các quy luật kinh tế cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế nói chung và trong doanh nghiệp nói riêng của Đảng và Nhà nước. Trong phân tích phải tính đến yêu cầu của quy luật giá trị. Phân tích hoạt động kinh doanh đánh giá cao tình hình tiết kiệm lao phí lao động sống và lao động quá khứ để hạ giá thành sản phẩm dịch vụ, tăng sản lượng sản phẩm, tăng doanh thu, lợi nhuận, tăng mức tích luỹ vốn. Bên cạnh đó phân tích kinh doanh còn phải tính đến yêu cầu của quy luật này phù hợp với mức độ phát triển của nền sản xuất xã hội.

Chẳng hạn phân tích sử dụng lao động phải xem xét, nghiên cứu mối quan hệ giữa tốc độ tăng năng suất lao động và tốc độ tăng tiền lương. Thường thì tốc độ tăng tiền lương phải chậm hơn tốc độ tăng năng suất lao động.

Với đặc điểm thứ ba của cơ sở lý luận phân tích là nghiên cứu các hiện tượng, quá trình kinh doanh trong sự phát triển tất yếu của những hiện tượng đó, đồng thời có tính đến yêu cầu của các quy luật kính tế cơ bản mới bảo đảm tính khách quan khoa học của phân tích hoạt động kinh doanh.

4. NHIỆM VỤ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

Để trở thành một công cụ của công tác quản lý hoạt động kinh doanh, là cơ sở cho việc ra quyết định kinh doanh đúng đắn, phân tích hoạt động kinh doanh có những nhiệm vụ sau:

4.1. Kiểm tra và đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh thông qua các chỉ tiêu kinh tế:

Nhiệm vụ trước tiên của phân tích là đánh giá và kiểm tra khái quát giữa kết quả kinh doanh đạt được so với mục tiêu kế hoạch, dự toán, định mức. . . đã đặt ra để khẳng định tính đúng đắn và khoa học của chỉ tiêu đã xây dựng trên một số mặt chủ yếu của quá trình hoạt động kinh doanh.

Ngoài quá trình đánh giá trên, phân tích cần xem xét đánh giá tình hình chấp hành các quy định, thể lệ thanh toán, trên cơ sở pháp lý,luật pháp trong nước và quốc tế.

Thông qua quá trình kiểm tra, đánh giá, ta có được cơ sở định hướng để nghiên cứu sâu hơn ở các bước tiếp theo, làm rõ các vấn đề cần quan tâm.

4.2. Xác định các nhân tố ảnh hưởng của các chỉ tiêu và tìm các nguyên nhân gây nên ảnh hưởng của các nhân tố đó:

Biến động của các chỉ tiêu là do ảnh hưởng trực tiếp của các nhân tố tác động tới chỉ tiêu gây nên. Cho nên phải xác định, lượng hoá được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới chỉ tiêu và những nguyên nhân tác động vào nhân tố đó. Chẳng hạn khi nghiên cứu chỉ tiêu doanh thu kinh doanh, các nhân tố làm cho doanh thu thay đổi như: sản lượng dịch vụ, chính sách giá thay đổi. Vậy các nguyên nhân ảnh hưởng tới sản lượng dịch vụ có thể là nhu cầu của khách hàng tăng, có thể là do số lượng dịch vụ tăng lên, có thể là việc đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng do công nghệ phát triển, có thể do doanh nghiệp đầu tư thêm trang thiết bị để mở rộng sản xuất… Còn nhân tố giá thay đổi, có thể là do chính sách của nhà nước, sự lựa chọn mức cước phí của ngành trong khung nhà nước quy định thay đổi…

4.3. Đề xuất giải pháp nhằm khai thác triệt để tiềm năng và khắc phục những tồn tại của quá trình hoạt động kinh doanh:

Phân tích hoạt động kinh doanh không chỉ đánh giá kết quả không chỉ dừng lại ở việc xác định các nhân tố ảnh hưởng và các nguyên nhân mà trên cơ sở đó phát hiện ra các tiềm năng cần phải khai thác và những khâu còn yếu kém tồn tại, nhằm đề ra các giải pháp, biện pháp phát huy hết thế mạnh, khắc phục những tồn tại của doanh nghiệp.

4.4. Xây dựng phương án kinh doanh căn cứ vào mục tiêu đã định:

Quá trình kiểm tra và đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh giúp doanh nghiệp biết được tiến độ thực hiện, những nguyên nhân sai lệch xảy ra, ngoài ra còn giúp cho doanh nghiệp phát hiện những thay đổi có thể xảy ra tiếp theo. Nếu kiểm tra và đánh giá đúng đắn sẽ giúp cho doanh nghiệp điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp và đề ra các giải pháp tiến hành trong tương lai.

Định kỳ doanh nghiệp phải tiến hành kiểm tra và đánh giá hoạt động kinh doanh trên tất cả các góc độ, đồng thời căn cứ vào điều kiện tác động của môi trường bên ngoài hiện tại và tương lai để xác định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường để định hướng, để xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp. Nhiệm vụ của phân tích nhằm xem xét,dự báo, dự đoán sự phát triển của doanh nghiệp trong tương lai, hoạch định các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.

5. CHỈ TIÊU PHÂN TÍCH

5.1. Khái niệm chỉ tiêu phân tích

Trong quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp dựa vào kết quả các loại hạch toán, có thể rút ra những chỉ tiêu cần thiết để phân tích các mặt hoạt động kinh doanh. Các chỉ tiêu phân tích đó biểu thị đặc tính về mức độ hoàn thành nhiệm vụ, về động thái của quá trình kinh doanh của các bộ phận, các mặt cá biệt hợp thành các qúa trình kinh doanh đó. Chỉ tiêu phân tích có thể biểu thị mối liên hệ qua lại của các mặt hoạt động của doanh nghiệp, cũng có thể xác định nguyên nhân đem lại những kết quả kinh tế nhất định.

Chỉ tiêu phân tích là những khái niệm nhất định phản ánh cả số lượng, mức độ, nội dụng và hiệu qủa kinh tế của một hiện tượng kinh tế, một quá trình kinh tế toàn bộ hay từng mặt cá biệt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nội dung của chỉ tiêu biểu hiện bản chất kinh tế của các hiện tượng, các quá trình kinh tế, do đó nó luôn luôn ổn định ; còn giá trị về con số của chỉ tiêu biểu thị mức độ đo lường cụ thể, do đó nó luôn biến đổi theo thời gian và không gian cụ thể.

5.2 Hệ thống chỉ tiêu phân tích

– Căn cvào ni dung kinh tế: phân chỉ tiêu phân tích thành chỉ tiêu số lượng và chỉ tiêu chất lượng.

Chỉ tiêu số lượng phản ánh quy mô của kết quả hay điều kiện của quá trình kinh doanh như doanh thu, lượng vốn,…

Chỉ tiêu chất lượng phản ánh những đặc điểm về bản chất của quá trình đó. Có chỉ tiêu chất lượng phản ánh hiệu quả toàn bộ hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, có chỉ tiêu chất lượng phản ánh hiệu quả một khía cạnh nào đó của quá trình kinh doanh

Chỉ tiêu số lượng và chỉ tiêu chất lượng có mối quan hệ mật thiết với nhau, chính vì vậy, không nên phân tích một cách cô lập mà phải đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau mới thu được kết quả toàn diện và sâu sắc. Ngoài ra cũng cần nghiên cứu phân tích các chỉ tiêu này trong thể thống nhất trong mối liên hệ giữa chỉ tiêu số lượng và chỉ tiêu chất lượng

– Theo cách tính toán: Chỉ tiêu phân tích bao gồm chỉ tiêu tổng lượng, chỉ tiêu tương đối và chỉ tiêu bình quân.

Chỉ tiêu tổng lượng hay chỉ tiêu tuyệt đối biểu thị bằng số tuyệt đối, được sử dụng để đánh giá quy mô kết quả hay điều kiện kinh doanh tại một thời gian và không gian cụ thể như doanh thu, lượng vốn, số lao động.

Chỉ tiêu tương đối là những chỉ tiêu phản ánh quan hệ so sánh bằng số tương đối giữa hai chỉ tiêu tổng lượng. Chỉ tiêu này có thể tính bằng tỷ lệ hoặc phần trăm (%). Nó được sử dụng để phân tích quan hệ kinh tế giữa các bộ phận.

Chỉ tiêu bình quân phản ánh mức độ chung bằng số bình quân hay nói một cách khác, chỉ tiêu bình quân phản ánh mức độ điển hình của một tổng thể nào đó . Nó được sử dụng để so sánh tổng thể theo các loại tiêu thức số lượng để nghiên cứu sự thay đổi về mặt thời gian, mức độ điển hình các loại tiêu thức số lượng của tổng thể; nghiên cứu quá trình và xu hướng phát triển của tổng thể

– Chtiêu phân tích còn được phân ra chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu cá biệt.

Chỉ tiêu tổng hợp phản ánh một tổng hoà nhất định của quá trình kinh doanh, tổng hoà này biểu thị sự tổng hợp của các quá trình kinh doanh, biểu thị kết cấu và chất lượng của những quá trình đó.

Chỉ tiêu cá biệt không có ảnh hưởng số lượng của quá trình kinh doanh nói trên. Sử dụng các chỉ tiêu trong phân tích là để nêu ra những đặc điểm của quá trình kinh doanh, đồng thời xác định các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động mà doanh nghiệp đạt được trong một chu kỳ kinh doanh nhất định, khi biểu thị đặc tính của hiện tượng kinh doanh, quá trình kinh doanh, có thể thấy kết cấu của chỉ tiêu phân tích. Các chỉ tiêu phân tích nói rõ doanh nghiệp đã hoàn thành nhiệm vụ như thế nào? đạt đến mức độ nào? quá trình kinh doanh xảy ra như thế nào?..v.v…

Cũng như các chỉ tiêu kinh tế khác, chỉ tiêu phân tích đều có đơn vị tính. Đơn vị tính có thể là hiện vật như đơn vị tự nhiên (con,cái ); đơn vị đo lường (mét, kilôgam, tạ, tấn ); đơn vị thời gian( ngày, giờ). Cấu thành của đơn vị được dùng để tính chỉ tiêu phân tích cũng gồm có đơn vị đơn và đơn vị kép. Đơn vị đơn như mét, kilôgam,..; còn đơn vị kép như Kw/h điện, máy điện thoại/100 dân…v.v… Trong các đơn vị trên, chỉ có đơn vị giá trị và đơn vị lao động là có tác dụng tổng hợp, còn các đơn vị khác không có tác dụng tổng hợp.

Hệ thống chỉ tiêu phân tích có nhiều loại, việc sử dụng loại chỉ tiêu nào là do nội dung, yêu cầu và nhiệm vụ của công tác phân tích cụ thể quyết định.

5.3 Chi tiết hoá chỉ tiêu phân tích

Để phân tích hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được sâu sắc và kết quả, nếu chỉ dựa vào các chỉ tiêu tổng hợp thì chưa đủ, cần phải có những chỉ tiêu cụ thể chi tiết. Cần phải chi tiết các chỉ tiêu phân tích nhằm phản ánh các mặt tốt, xấu, phản ánh kết quả đạt được theo thời gian, địa điểm và bộ phận cá biệt hợp thành chỉ tiêu đó.

Thông thường chỉ tiêu phân tích được chi tiết hoá theo thời gian thực hiện, theo địa điểm và theo bộ phận cá biệt hợp thành các chỉ tiêu đó.

a. Chi tiết hoá chtiêu theo thi gian: tức là các chỉ tiêu năm được chi tiết thành chỉ tiêu quý hoặc chỉ tiêu tháng .

Chi tiết chỉ tiêu phân tích theo thời gian có tác dụng tìm ra những chỉ tiêu lớn nhất, có thể xác định được xu hướng của quá trình hoạt động của bộ phận kinh doanh này hoặc bộ phận kinh doanh khác, có thể tìm thời gian tốt nhất theo kết quả đạt được khi doanh nghiệp sử dụng khả năng của mình. Nó cũng cho phép tìm ra sự không đều đặn của tình hình tiến triển trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra chi tiết hoá chỉ tiêu phân tích theo thời gian còn có tác dụng trong việc nghiên cứu sử dụng thời gian trong ngày làm việc. Bằng cách chụp ảnh bấm giờ ngày làm việc cũng như bằng những cách điều tra khác có thể xác định thời gian người lao động sử dụng để sản xuất và những hao phí không sản xuất, từ đó có thể xác định được hiệu quả công tác ở những khoảng thời gian khác nhau trong ngày làm việc của người lao động.

b. Chi tiết hoá chỉ tiêu phân tích theo địa điểm:

Mỗi doanh nghiệp đều bao gồm một số khâu, một số đơn vị sản xuất nhất định. Chính vì vậy chỉ tiêu tổng hợp về công tác của doanh nghiệp được hình thành từ các chỉ tiêu cá biệt về công tác của tất cả các khâu, các đơn vị sản xuất đó.

Chi tiết chỉ tiêu phân tích theo địa điểm có tác dụng đối với việc nêu rõ phận, những đơn vị sản xuất nào tiên tiến, những lao động nào tiên tiến. Đồng những bộ thời cũng nêu ra những khâu, những đơn vị chậm tiến. Nhiều doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm không đảm bảo, ảnh hưởng đến doanh thu. Nhờ chi tiết chỉ tiêu phân tích theo địa điểm có thể xác định được các khâu, các đơn vị có ít hoặc nhiều sản phẩm không đảm bảo chất lượng, trên cơ sở đó tìm nguyên nhân và biện pháp khắc phục.

Chi tiết chỉ tiêu phân tích theo địa điểm sẽ bổ sung cho chi tiết theo thời gian. Một chỉ tiêu nếu được chi tiết cả thời gian và địa điểm khi phân tích sẽ cho kết quả đầy đủ và sâu sắc hơn.

c. Chi tiết chỉ tiêu phân tích theo bộ phận cá biệt hợp thành:

Được sử dụng để tìm kết cấu của quá trình kinh tế và xác lập vai trò của các bộ phận cá biệt hợp thành chỉ tiêu tổng hợp. Chi tiết theo bộ phận cá biệt có tác dụng đối với việc tìm các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh mà doanh nghiệp đã đạt được. Nó cũng có tác dụng vạch rõ mức độ hoàn thành hiện tượng kinh tế hoặc quá trình kinh tế.

Trong thực tế không ít doanh nghiệp hoàn thành được nhiệm vụ chung, nhưng lại không hoàn thành nhiệm vụ cá biệt. Ngoài ra nó còn giúp cho người làm công tác phân tích tập trung khả năng sao cho đạt được kết quả tốt hơn. Tác dụng này rất quan trọng khi chi tiết quá trình lao động theo những hao phí lao động nhiều nhất nhằm tổ chức cơ giới hoá, tăng năng suất lao động…v.v… Chi tiết hoá chỉ tiêu phân tích theo bộ phận cá biệt hợp thành còn có thể xác định được mối quan hệ qua lại của những chi tiêu khác nhau. Xác định được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau đến hiện tượng và quá trình kinh tế.

Tóm lại, chi tiết chỉ tiêu phân tích theo thời gian, theo địa điểm và theo bộ phận cá biệt hợp thành có sự bổ sung mật thiết cho nhau. Nhờ đó có thể đi sâu nghiên cứu toàn bộ quá trình kinh doanh, tìm ra những mối liên hệ qua lại và những mặt khác nhau của các chỉ tiêu phân tích. Chi tiết hoá chỉ tiêu phân tích có thể tiến hành một cách liên tục, tức là sau khi chi tiết lần đầu các chỉ tiêu phân tích theo chỉ tiêu cá biệt này lại có thể được chi tiết thêm nữa theo những chỉ tiêu cá biệt khác. Chẳng hạn, chỉ tiêu giá thành sản phẩm dịch vụ, sau khi được chi tiết hoá theo bộ phận có thể chi tiết theo yêú tố chi phí tiền lương, bảo hiểm xã hội, vật liệu, dịch vụ mua ngoài, chi khác..v.v…

Cũng cần chú ý là không phải khi nào cũng cần và có khả năng chi tiết một cách liên tục chỉ tiêu phân tích theo bộ phận cá biệt. Một số chỉ tiêu phân tích chỉ có thể chi tiết được đến một mức độ nào đó mà thôi. Nói chung, chi tiết chỉ tiêu phân tích theo bộ phận cá biệt hợp thành quyết định bởi nhiệm vụ, nội dung và yêu cầu của công tác phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

5.4 Mối liên hệ giữa các chỉ tiêu phân tích

Trong phân tích hoạt động kinh doanh, mỗi chỉ tiêu đều biểu thị một khía cạnh nào đó của hiện tượng và quá trình kinh tế nghiên cứu. Các khía cạnh đó liên quan mật thiết với nhau, cho nên khi nghiên cứu một hiện tượng nào đó phải xem xét tất cả các chỉ tiêu, mối liên hệ giữa các chỉ tiêu đó.

Mối liên hệ giữa các chỉ tiêu thường bao gồm : liên hệ hàm số, liên hệ tương quan, liên hệ thuận hoặc nghịch, liên hệ một hay nhiều nhân tố…

Mối liên hệ khi mà một giá trị nhất định của nhân tố ứng với một giá trị nhất định của chỉ tiêu phân tích (chỉ tiêu kết quả) gọi là liên hệ hàm số.

Mối liên hệ khi mà một giá trị nhất định của chỉ tiêu kết quả ứng với nhiều giá trị của nhân tố gọi là liên hệ tương quan.

Cả liên hệ hàm số và tương quan đều có thể là liên hệ thuận hay liên hệ nghịch. Liên hệ thuận là mối liên hệ khi tăng hoặc giảm chỉ tiêu nhân tố sẽ làm tăng hoặc giảm chỉ tiêu kết quả. Còn liên hệ nghịch thì ngược lại tức là khi tăng hoặc giảm chỉ tiêu nhân tố sẽ làm giảm hoặc tăng chỉ tiêu kết quả.

Mối liên hệ giữa các chỉ tiêu thường được biểu diễn dưới dạng sơ đồ hoặc công thức toán học. Trong sơ đồ mối liên hệ giữa các chỉ tiêu biểu thị nguyên nhân, kết quả giữa các khía cạnh của hiện tượng nghiên cứu. Chính vì vậy mỗi chỉ tiêu giữ một vai trò nhất định. Khi biểu thị mối liên hệ giữa các chỉ tiêu dưới dạng công thức cần bảo đảm các yêu cầu sau:

– Các chỉ tiêu nhân tố trong công thức phân tích phải xác định nguyên nhân của chỉ tiêu kết quả (chỉ tiêu phân tích).

– Giữa các chỉ tiêu nhân tố xác định chỉ tiêu kết quả (chỉ tiêu phân tích) phải không có sự liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu có sự liên hệ chặt chẽ sẽ không đánh giá đúng nguyên nhân thay đổi chỉ tiêu kết quả. Trong trường hợp như vậy phải nghiên cứu một cách tỷ mỷ lựa chọn phương pháp luận phân tích thích hợ

6. NHÂN TỐ TRONG PHÂN TÍCH

6.1. Khái niệm nhân tố

Trong phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, khái niệm nhân tố được thường xuyên sử dụng để chỉ điều kiện tất yếu làm cho quá trình kinh tế nào đó có thể thực hiện đuợc. Nhân tố có nghĩa là nguyên nhân gây ảnh hưởng đến kết quả nhất định cho hiện tượng và quá trình kinh tế.

Trong phân tích, nguyên nhân và kết quả không phải là cố định bởi vì nghiên cứu một hiện tượng kinh doanh, một quá trình kinh doanh nào đó thì cái này có thể là nguyên nhân nhưng khi nghiên cứu một qúa kinh doanh khác thì nguyên nhân đó lại trở thành kết qủa. Có khi nguyên nhân và kết quả hợp với nhau làm cho nguyên nhân biểu hiện thành kết quả và ngược lại.

6.2 Phân loại nhân tố

Trong quá trình phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có rất nhiều nhân tố. Việc xác định nhân tố nào là tuỳ thuộc vào đặc điểm của hiện tượng, quá trình kinh doanh. Tuy vậy vẫn có thể phân các nhân tố như sau :

a. Theo ni dung kinh tế bao gồm:

– Nhân tố thuộc điều kiện kinh doanh (lao động, vật tư, tiền vốn); các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô kinh doanh.

– Nhân tố thuộc về kết quả kinh doanh, các nhân tố này thường ảnh hưởng dây chuyền từ khâu cung ứng đến sản xuất tiêu thụ từ đó ảnh hưởng đến tài chính.

b. Theo tính tt yếu ca nhân tbao gồm:

– Nhân tố chủ quan là những nhân tố tác động đến hoạt động kinh doanh tuỳ thuộc vào sự nỗ lực chủ quan của chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Những nhân tố này như trình độ sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn, trình độ khai thác các nhân tố khách quan của doanh nghiệp (giá thành sản phẩm, mức hao phí, thời gian lao động).

Nhân tố khách quan là những nhân tố phát sinh và tác động như một yêu cầu tất yếu ngoài sự chi phối của chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh (thuế, giá cả, lương bình quân).

Việc phân tích kết quả hoạt động kinh doanh theo sự tác động của các nhân tố chủ quan và khách quan, giúp doanh nghiệp đánh giá đúng những nỗ lực của bản thân và tìm hướng tăng nhanh hiệu quả hoạt động kinh doanh.

c. Theo tính cht ca nhân tbao gồm:

– Nhân tố số lượng là những nhân tố phản ánh quy mô, điều kiện hoạt động kinh doanh, như số lượng lao động, vật tư, tiến vốn, sản lượng doanh .

– Nhân tố chất lượng là những nhân tố phản ánh hiệu suất hoạt động kinh doanh.

Việc phân tích hoạt động kinh doanh theo chỉ tiêu số lượng và chỉ tiêu chất lượng giúp cho việc đánh giá phương hướng, đánh giá chất lượng và giúp cho việc xác định trình tự đánh giá các nhân tố khi sử dụng phương pháp loại trừ trong phân tích hoạt động kinh doanh.

d. Theo xu hướng tác động của các nhân tố phân ra:

– Nhân tố tích cực là những nhân tố có tác động tốt hay làm tăng độ lớn của kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh.

– Nhân tố tiêu cực là những nhân tố có tác động xấu hay làm giảm quy mô của kết qủa hoạt động kinh doanh.

Trong phân tích cần xác định xu hướng và sự bù trừ về độ lớn của các loại nhân tố tích cực và tiêu cực để xác định ảnh hưởng tổng hợp của tất cả các loại nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh theo hướng tác động của các nhân tố tích cực và tiêu cực giúp cho doanh nghiệp chủ động thực hiện các biện pháp để phát huy những nhân tố tích cực, tăng nhanh kết quả hoạt động kinh doanh. Đồn thời cũng hạn chế tới mức tối đa những nhân tố tiêu cực, có tác động xấu đến quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Nhân tố có nhiều loại như đã nêu ở trên, nhưng cần chú rằng khi phân loại phải tuỳ thuộc vào mối quan hệ cụ thể của nhân tố với chỉ tiêu phân tích. Chẳng hạn, có những nhân tố trong mối quan hệ với chỉ tiêu này là loại nhân tố này, nhưng trong mối quan hệ với chỉ tiêu khác trở thành nhân tố khác. Chẳng hạn doanh thu là chỉ tiêu phân tích khi đánh giá, phân tích kết quả hoạt động kinh doanh, nhưng lại là chỉ tiêu nhân tố khi phân tích chỉ tiêu lợi nhuận hoạt động kinh doanh.

7. QUY TRÌNH TIẾN HÀNH CÔNG TÁC PHÂN TÍCH

Tổ chức công tác phân tích là một công việc hết sức quan trọng, nó sẽ quyết định chất lượng và kết quả công tác phân tích. Thông thường việc phân tích được tiến hành theo quy trình (trình tự) sau đây:

7.1. Lp kế hoch phân tích

Là xác định trước về nội dung, phạm vi, thời gian và cách tổ chức phân tích:

Về nội dung phân tích cần xác định rõ các vấn đề cần phân tích. Có thể là toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có thể là một khía cạnh nào đó của quá trình kinh doanh. Đây là cơ sở để xây dựng đề cương cụ thể để tiến hành phân tích.

Về phạm vi phân tích có thể toàn doanh nghiệp hoặc một vài đơn vị bộ phận được chọn làm điểm để phân tích. Tùy theo yêu cầu và thực tiễn quản lý kinh doanh mà xác định nội dung và phạm vi phân tích cho thích hợp.

Về thời gian ấn định trong kế hoạch phân tích bao gồm thời gian chuẩn bị và thời gian tiến hành phân tích.

Trong kế hoạch phân tích còn phân công trách nhiệm các bộ phân trực tiếp và phục vụ công tác phân tích cùng các hình thức hội nghị phân tích nhằm thu thập nhiều ý kiến, đánh giá đúng thực trạng và phát hiện đầy đủ tiềm năng cho việc phấn đấu đạt kết quả cao trong kinh doanh.

7.2. Thu thập, kiểm tra và xử lý số liệu:

Tài liệu sử dụng để làm căn cứ phân tích bao gồm văn kiện của các cấp bộ Đảng có liên quan đến hoạt động kinh doanh. Các nghị quyết, chỉ thị của chính quyền các cấp và cơ quan quản lý cấp trên có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; các tài liệu kế hoạch, dự toán, định mức,…v..v..

Sau khi thu thập tài liệu cần tiến hành kiểm tra tính hợp pháp của tài liệu bao gồm tính pháp lý của tài liệu (trình tự lập, ban hành, cấp thẩm quyền ký duyệt..), nội dung và phương pháp tính và ghi các con số; cách đánh giá đối với chỉ tiêu giá trị. Phạm vi kiểm tra không chỉ giới hạn các tài liệu trực tiếp làm căn cứ phân tích mà còn cả các tài liệu khác có liên quan, đặc biệt là các tài liệu gốc.

7.3. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu và phương pháp phân tích:

Tuỳ theo nội dung, nguồn tài liệu thu thập được và loại hình phân tích để xác định hệ thống chỉ tiêu và phương pháp phân tích cho thích hợp .

Tuỳ theo phương tiện phân tích và trình độ sử dụng tài liệu phân tích, hệ thống chỉ tiêu được thể hiện khác nhau: có thể bằng sơ đồ khối thường dùng trong chương trình cho máy vi tính hay bảng phân tích hoặc biểu đồ.

7. 4. Viết báo cáo phân tích và tổ chức hội nghị phân tích:

Báo cáo phân tích, thực chất là bản tổng hợp những đánh giá cơ bản cùng những tài liệu chọn lọc để minh hoạ rút ra từ quá trình phân tích. Khi đánh giá cần nêu rõ cả thực trạng và tiềm năng cần khai thác. Cũng phải nêu phương hướng và biện pháp cho kỳ hoạt động kinh doanh tiếp theo.

Báo cáo phân tích cần được trình bày trong hội nghị phân tích để thu thập các ý kiến đóng góp và thảo luận cách thức thực hiện các phương hướng và biện pháp trong kỳ kinh doanh tiếp theo.

8. TỔ CHỨC CÔNG TÁC PHÂN TÍCH

Công tác tổ chức phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh thường phụ thuộc vào công tác sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp. Công tác tổ chức sản xuất kinh doanh lại phụ thuộc vào loại hình sản xuất kinh doanh. Đặc điểm và điều kiện kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp không giống nhau, do đó công tác tổ chức phân tích hoạt động kinh doanh cũng phải đặt ra như thế nào để phù hợp với hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh.

*Công tác phân tích hoạt động kinh doanh có thể nằm ở một bộ phận riêng biệt kiểm soát trực tiếp của Ban giám đốc và làm tham mưu cho giám đốc. Theo hình thức này thì quá trình phân tích được thực hiện toàn bộ nội dung của hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả phân tích sẽ cung cấp thông tin thường xuyên cho lãnh đạo cấp cao. Trên cơ sở này các thông tin qua phân tích được truyền đạt từ trên xuống dưới theo các kênh căn cứ theo chức năng quản lý và quá trình đánh giá, kiểm tra, kiểm soát, điều chỉnh, chấn chỉnh đối với từng bộ phận của doanh nghiệp cũng được kèm theo từ ban giám đốc doanh nghiệp tới các phòng ban.

* Công tác phân tích hoạt động kinh doanh được thực hiện ở nhiều bộ phận riêng biệt căn cứ theo các chức năng của quản lý, nhằm cung cấp và thoả mãn thông tin cho các bộ phận của quản lý được phân quyền, trách nhiệm trong lĩnh vực kiểm tra, kiểm soát và ra quyết định đối với chi phí,doanh thu trong phạm vi được giao quyền đó. Cụ thể:

+ Đối với bộ phận được quyền kiểm soát và ra quyết định về chi phí sẽ tổ chức thực hiện phân tích về tình hình biến động giữa thực hiện so với định mức (hoặc kế hoạch) nhằm phát hiện chênh lệch của từng yếu tố chi phí, giá cả về mặt biến động lượng và giá, trên cơ sở đó tìm ra nguyên nhân và đề ra các giải pháp.

+ Đối với các bộ phận được phân quyền kiểm soát và ra quyết định về doanh thu thường gọi là trung tâm kinh doanh, trung tâm này là các bộ phận kinh doanh riêng biệt theo khu vực địa điểm hay một số sản phẩm, nhóm hàng nhất định, do đó họ có quyền với các bộ phận cấp dưới là trung tâm chi phí. Ứng với trung tâm này thường là trưởng bộ phận kinh doanh hoặc giám đốc kinh doanh ở từng doanh nghiệp trực thuộc tổng công ty. Trung tâm này sẽ tiến hành phân tích báo cáo thu nhập, đi xem xét và đánh giá mối quan hệ chi phí – khối lượng – lợi nhuận là cơ sở để đánh giá hoà vốn trong kinh doanh và việc phân tích báo cáo bộ phận.

+ Đối với trung tâm đầu tư, các nhà quản trị cấp cao nhất có quyền phụ trách toàn bộ doanh nghiệp, họ chủ yếu quan tâm đến hiệu quả của vốn đầu tư, ngắn hạn và dài hạn. Để đáp ứng việc cung cấp và thoả mãn thông tin thì quá trình phân tích sẽ tiến hành phân tích các báo cáo kế toán – tài chính, phân tích để ra quyết định dài hạn và ngắn hạn.

Như vậy quá trình tổ chức công tác phân tích được tiến hành tuỳ theo từng loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp. Nhằm đáp ứng thoả mãn thông tin cung cấp cho quy trình lập kế hoạch, kiểm tra và ra quyết định, công tác tổ chức phân tích phải làm sao thoả mãn được cao nhất nhu cầu của từng cấp chức năng quản lý.

(Theo: Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh)

5/5 - (1 bình chọn)

Có thể bạn quan tâm

123123

Lytuong.net – Contact: [email protected]