Tăng trưởng và phát triển là những vấn đề quan tâm hàng đầu đối với xã hội loài người trên thế giới và trong từng quốc gia. Mục đích cuối cùng cần đạt được của mọi hoạt động của con người là nhằm có được cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Trong lĩnh vực này, thế giới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Trong những thập kỷ gần đây, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm về phát triển. Hàng loạt các chương trình, dự án được xây dựng nhằm giải quyết các vấn đề về khoa học và công nghệ, về phát triển kinh tế, phát triển nông nghiệp và nông thôn, phát triển văn hoá xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững các khía cạnh của nền kinh tế và xã hội, v.v… đã thu được những kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, trong thực tế, có những quan niệm chưa đúng đắn về tăng trưởng và phát triển.
1. Tăng trưởng
Tăng trưởng được hiểu là sự gia tăng về mặt số lượng của một sự vật nhất định. Trong kinh tế, tăng trưởng thể hiện sự gia tăng hơn trước về sản phẩm hay lượng đầu ra của một quá trình sản xuất hay hoạt động. Tăng trưởng kinh tế là phạm trù cơ bản nhất của lý luận kinh tế, là tiền đề vật chất và cơ sở kinh tế của sự tồn tại và phát triển của mọi hình thái xã hội. Ðã có rất nhiều nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nhà kinh tế học cổ điển và hiện đại. Trong tác phẩm “Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện Chiến lược phát triển, tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là mức tăng lượng của cải (tài sản) trong một thời kỳ nhất định. Khái niệm tăng trưởng kinh tế này có thể được áp dụng cho mọi quy mô cấp độ, cho toàn nền kinh tế, cho từng ngành, cho các doanh nghiệp, cho cấp độ gia đình và cấp độ cá nhân. Tăng trưởng kinh tế có thể hiểu như là kết quả của mọi hoạt động kinh tế trong các lĩnh vực sản xuất cũng như trong lĩnh vực dịch vụ được tạo ra trong một thời kỳ nhất định. Lượng của cải có thể được tính bằng hiện vật hay bằng tiền. Ðể phản ánh mức độ tăng trưởng kinh tế của một thời kỳ, người ta thường dùng giá trị tuyệt đối của các đại lượng để so sánh chúng với nhau. Chênh lệch giữa các thời điểm chính là mức tăng trưởng kinh tế của một thời kỳ cụ thể. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế còn được phản ánh bằng tốc độ gia tăng của các đại lượng trong các giai đoạn với nhau và được đo bằng phần trăm thay đổi, giá trị phần trăm cao hay thấp thể hiện tốc độ tăng trưởng nhanh hay chậm.
Hiện nay, có nhiều quan điểm nhấn mạnh vào tăng trưởng, coi tăng trưởng như là giải pháp chính để tăng thu nhập, nâng cao mức sống, từ đó giúp giải quyết các vấn đề về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào tăng trưởng, đáp ứng những lợi ích trước mắt, cục bộ, sẽ dẫn đến việc khai thác, sử dụng bừa bãi các nguồn lực của quốc gia và địa phương, làm cho những nguồn lực này nhanh chóng cạn kiệt, môi trường bị suy giảm nhanh chóng, ảnh hưởng nặng nề tới sự phát triển chung của quốc gia và của các thế hệ tương lai. Không những vậy, tăng trưởng cục bộ còn tác động mạnh mẽ đến các vấn đề về an ninh xã hội, bất bình đẳng về kinh tế và chính trị, v.v…
2. Phát triển
Phát triển được coi như tiến trình biến chuyển của xã hội, là chuỗi những biến chuyển có mối quan hệ qua lại với nhau. Sự tồn tại và phát triển của một xã hội hôm nay là sự kế thừa những di sản đã diễn ra trong quá khứ.
Phát triển theo khái niệm chung nhất là việc nâng cao hạnh phúc của người dân, bao hàm nâng cao các chuẩn mực sống, cải thiện các điều kiện giáo dục, sức khoẻ, sự bình đẳng về các cơ hội… Ngoài ra việc bảo đảm các quyền về chính trị và công dân là những mục tiêu rộng hơn của phát triển. Tăng trưởng kinh tế mới chỉ thể hiện một phần, một yếu tố chưa đầy đủ của sự phát triển.
Có thể hiểu, phát triển là việc tạo điều kiện cho con người sinh sống ở bất cứ nơi nào đều được thoả mãn các nhu cầu sống của mình, có mức tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ tốt, đảm bảo chất lượng cuộc sống, có trình độ học vấn cao, được hưởng những thành tựu về văn hoá và tinh thần, có đủ điều kiện cho một môi trường sống lành mạnh, được hưởng các quyền cơ bản của con người và được đảm bảo an ninh, an toàn, không có bạo lực.
Trong kinh tế, phát triển là quá trình chuyển biến về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng sản phẩm, sự hoàn thiện về cơ cấu nền kinh tế và việc nâng cao chất lượng mọi mặt của cuộc sống.
Như vậy, có thể hiểu phát triển kinh tế trước hết là sự gia tăng nhiều hơn về số lượng và chất lượng sản phẩm, sự đa dạng về chủng loại sản phẩm của nền kinh tế. Ðồng thời, phát triển còn là sự thay đổi theo chiều hướng tích cực trên tất cả các khía cạnh của nền kinh tế, xã hội. Ðó là sự thay đổi về cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng ngành nông nghiệp ngày càng giảm, tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng. Môi trường kinh tế và xã hội, các khía cạnh tổ chức và kỹ thuật ngày càng thuận lợi cho các tác nhân tham gia. Không những vậy, phát triển còn đảm bảo tăng khả năng thích ứng với hoàn cảnh mới của quốc gia, các ngành, các doanh nghiệp và của mọi người dân. Sự phát triển sẽ đảm bảo nâng cao phúc lợi của người dân về kinh tế, văn hoá, giáo dục, xã hội và sự tự do bình đẳng, sự phát triển đồng đều giữa các vùng, giữa các dân tộc, các tầng lớp cư dân và sự bình đẳng trong phát triển giữa nam và nữ.
Trong tình hình hiện nay, do có quan niệm sai lầm về vai trò của tăng trưởng mà ở nhiều quốc gia đang phải đối mặt với những mô hình phát triển theo chiều hướng không tốt. Ðáng chú ý là năm loại mô hình đã được tổng kết sau đây:
– Mô hình phát triển trong đó đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhưng không có tiến bộ và công bằng xã hội. Theo mô hình này, tổng sản phẩm quốc nội của toàn thế giới gia tăng nhanh chóng, nhưng không được phân phối công bằng, vì sự tăng trưởng đó chỉ làm cho giới chủ của các công ty đa quốc gia giàu lên rất nhanh chóng, trong khi rất nhiều người lao động lại rơi vào cảnh thất nghiệp, nghèo đói, bệnh tật, vô học và bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển.
– Mô hình phát triển chú ý đến tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, đô thị hoá. Theo mô hình này, các ngành công nghiệp và khu vực đô thị được chú ý đầu tư và chú trọng phát triển. Trong khi đó, lĩnh vực nông nghiệp và các vùng nông thôn bị bỏ rơi, phải tự mình thực hiện các hoạt động cho sự tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, nông nghiệp và nông thôn không đủ sức tạo ra tiền đề về điều kiện nội sinh cần thiết về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu, lao động và thị trường cho phát triển công nghiệp và đô thị. Trong khi đó những dòng người vô tận từ các vùng quê lại đổ xô về các thành phố được mở rộng một cách tự phát, buộc phải sống chen chúc tại những khu nhà ổ chuột và để lại sau lưng họ những vùng nông thôn xơ xác, tiêu điều.
– Mô hình phát triển tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nhưng những người lao động không được trao quyền làm chủ. Theo mô hình này, yếu tố kỹ thuật có vai trò thống soái, điều khiển mọi hoạt động của con người. Có nghĩa, các cộng đồng người không thể có tự trị được, không thể tự mình quyết định cuộc sống của chính mình được, mà phải phục tùng bộ máy kỹ thuật, bộ máy đem lại nhiều tiện nghi hơn cho cuộc sống và tăng thêm năng suất lao động. Ðây chính là chiêu bài của một số giới cầm quyền phương Tây sử dụng nhằm dễ dàng điều khiển người lao động phục vụ cho lợi ích của chính họ.
– Mô hình phát triển tạo ra tăng trưởng kinh tế nhưng văn hoá, đạo đức xuống cấp. Theo mô hình này, nhiều nước chỉ quan tâm đơn thuần đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà quên đi mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con người. Chính vì vậy, văn hoá, đạo đức và lối sống ở những nước này bị tha hoá nghiêm trọng. Chủ nghĩa cá nhân ích kỷ được tôn thờ, chủ nghĩa tiêu dùng đến mức phi lý được khuyến khích.
– Mô hình phát triển tạo ra tăng trưởng kinh tế nhưng môi trường bị suy thoái. Ðể đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao trong qúa trình công nghiệp hoá, ở nhiều nước đã diễn ra những cuộc chạy đua khai thác đến cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên không có khả năng tự tái tạo. Kết quả là môi trường sinh thái toàn cầu bị phá vỡ, có nguy cơ rơi vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng.
Như vậy, những mô hình phát triển mà chỉ chú trọng đến tăng trưởng kinh tế đơn thuần, phục vụ quyền lợi của một số ít người có thế lực và giàu có, thực chất là những mô hình phản phát triển và có hại đối với tiến trình phát triển của một quốc gia và của toàn cầu. Ngày nay con người nhận thức về sự phát triển toàn diện hơn, đầy đủ hơn, phát triển không chỉ quan tâm đến sự tăng trưởng kinh tế mà còn đảm bảo nâng cao mức sống, hạnh phúc của nhân dân, tiến bộ về xã hội, cải thiện cơ cấu nền kinh tế, an toàn về môi trường.
Xem thêm: Phát triển xã hội là gì? Thước đo của sự phát triển
3. Phát triển bền vững
Trong những năm gần đây, do dân số gia tăng mạnh mẽ, do nhu cầu nâng cao mức sống, hoạt động của con người nhằm khai thác các nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên đã làm cho môi trường bị cạn kiệt. Sự can thiệp quá sâu của con người vào thiên nhiên đã dẫn đến cân bằng sinh thái bị phá vỡ. Nhiều nơi trên trái đất, con người đang phải đối mặt với những thảm hoạ thiên nhiên to lớn. Với những mô hình phát triển không cân bằng, nhiều quốc gia đã và đang phải trả giá cho những sai lầm về quan điểm phát triển của mình.
Trước những vấn đề của phát triển, vào nửa cuối của thế kỷ 20, Liên Hợp Quốc đã đưa ra ý tưởng về phát triển bền vững. Khái niệm về phát triển bền vững xuất hiện trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm của các quốc gia trên hành tinh, phản ánh xu thế thời đại và định hướng cho tương lai của con người. Theo quan điểm của Liên Hợp Quốc thì một thế giới phát triển bền vững là thế giới không sử dụng các nguồn tài nguyên có thể tái tạo (nước, đất đai, sinh vật) nhanh hơn khả năng tự tái tạo của chúng. Một xã hội bền vững sẽ không sử dụng các nguồn tài nguyên không thể tái tạo (khoáng sản, nhiên liệu, v.v.) nhanh hơn quá trình tìm ra những loại thay thế chúng và không thải ra môi trường các chất độc hại nhanh hơn quá trình trái đất hấp thụ và đồng hoá chúng.
Như vậy, phát triển bền vững là sự phát triển lành mạnh, tồn tại lâu dài, vừa đáp ứng được nhu cầu hiện tại, vừa không xâm phạm đến lợi ích của các thế hệ tương lai. Một vấn đề đặt ra là những người đang hưởng thụ những thành quả của sự phát triển kinh tế ngày nay có thể sẽ làm cho các thế hệ tương lai phải chịu đựng tình cảnh tồi tệ do môi trường trái đất bị suy thoái quá mức. Các thế hệ tương lai không chỉ kế thừa tình trạng ô nhiễm và cạn kiệt tài nguyên của hiện tại, mà còn thừa hưởng các thành quả của lao động hiện tại dưới dạng chất lượng giáo dục, kỹ thuật và kiến thức (vốn con người) cũng như vốn vật chất. Nhưng cũng có thể con người tương lai được hưởng lợi từ những sự đầu tư vào tài nguyên thiên nhiên, như canh tác hợp lý làm tăng độ màu mỡ của đất trồng trọt, trồng rừng và bảo vệ rừng làm tăng độ che phủ trên toàn cầu và trong từng quốc gia. Như vậy, khi xem xét những thứ mà thế hệ hiện tại chuyển cho các thế hệ tương lai, chúng ta cần phải cân nhắc toàn bộ các nguồn vốn vật chất, vốn con người và vốn thiên nhiên. Những loại vốn này sẽ quyết định phúc lợi của các thế hệ tương lai và những gì mà họ sẽ để lại cho những người kế tục họ.
Phát triển ý tưởng của Liên Hợp Quốc, Uỷ ban quốc tế về phát triển và môi trường (1987) đã định nghĩa: Phát triển bền vững là một quá trình của sự thay đổi, trong đó, việc khai thác và sử dụng tài nguyên, hướng đầu tư, hướng phát triển của công nghệ và kỹ thuật và sự thay đổi về tổ chức là thống nhất, làm tăng khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai cuả con người.
Hội nghị thượng đỉnh về trái đất năm 1992 tổ chức tại Rio de Janeiro năm 1992 đưa ra định nghĩa vắn tắt về phát triển bền vững là: Phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu của thế hệ ngày nay mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.
Xem thêm: Phát triển bền vững là gì? Khái niệm và nội dung của phát triển bền vững
(Nguồn tài liệu: Thanh Mai Cúc, Nguyễn Đình Hà, Giáo trình Phát triển nông thôn, Đại học Nông nghiệp Hà Nội)