Từ khi hình thành khoa học triết học cho đến thế kỷ thứ XVIII, tư tưởng mỹ học vẫn chưa có một đối tượng riêng mà chỉ như một phần của triết học. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người nói chung, đời sống thẩm mỹ, đời sống nghệ thuật của – cũng phát triển và đạt đến độ nở rộ ở thời Phục hưng và khai sáng. Lúc đó, những nguyên lý chung của triết học đã không thể giải quyết hết những vấn đề riêng của đời sống thẩm mỹ, đặc biệt là các hoạt động thuộc lĩnh vực nghệ thuật. Từ đó, nảy sinh nhu cầu phải có một môn khoa học mới – mỹ học. Năm 1750, Baumgácten đã cho xuất bản cuốn mỹ học đầu tiên, ở đó ông xác định môn học này là nghiên cứu việc nhận thức thế giới bằng cảm xúc.
Thời kỳ cổ điển Đức, Kant cho đối tượng của mỹ học là lĩnh vực sự phán đoán về thị hiếu thẩm mỹ, như vậy chỉ nhấn mạnh yếu tố chủ quan mà giản lược đi yếu tố khách quan, đây là yếu tố không kém phần quan trọng của chủ thể thẩm mỹ.
Giữa thế kỷ XIX, Trécnexépxki coi đối tượng của mỹ học là quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực và xác nhận “cái đẹp là cuộc sống” mà không xem xét nghệ thuật một cách thoả đáng trong hệ thống mỹ học của mình.
Trên cơ sở phương pháp luận của phép biện chứng duy vật và tiền đề sự phát triển phong phú, đa dạng của đời sống văn hoá thẩm mỹ của thế giới mà phần tập trung cao nhất của nó là tình hình hoạt động văn hoá nghệ thuật được phản ánh một cách sâu rộng, nhanh nhạy kịp thời, sinh động qua các phương tiện thông tin đại chúng cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, có thể thấy mỹ học phải nghiên cứu mặt thẩm mỹ của đời sống xã hội.
Mặt thẩm mỹ của đời sống xã hội là biểu hiện quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Hai phương diện đối lập nhau trong quan hệ thẩm mỹ nay là khách thể thẩm mỹ và chủ thể thẩm mỹ. Chúng tác động qua lại lẫn nhau ở trình độ cao nhất, tập trung nhất trong nghệ thuật. Do đó, nghệ thuật như phương thức và kết quả cao nhất của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa khách thể thẩm mỹ và chủ thể thẩm mỹ.
Khách thể thẩm mỹ mà mỹ học quan tâm nghiên cứu bao gồm các hiện tượng thẩm mỹ và các phạm trù mỹ học như kết quả nhận thức các hiện tượng thẩm mỹ ở trình độ cao nhất, những mối liên hệ chung nhất, bản chất nhất của các hiện tượng thẩm mỹ như các phạm trù cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả.
Chủ thể thẩm mỹ mà mỹ học khảo sát là con người vào thời khắc mà con người dường như bước ra khỏi các quan hệ thực tế – thực dụng và đắm mình vào các hoạt động thưởng ngoạn, đánh giá và sáng tạo các giá trị thẩm mỹ. Những khách thể mà chủ thể nhằm tới mang tính tự do, không lệ thuộc bởi các ràng buộc thực dụng, vụ lợi bên ngoài mà chủ yếu trên cơ sở của tình cảm thoả mãn, những khoái cảm tinh thần. Vì thế, mỹ học khái quát những nét căn bản về bản chất chủ thể thẩm mỹ, tức là ý thức thẩm mỹ cùng với các yếu tố cơ bản của nó như tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ …
Nghệ thuật là một lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội được nhiều kiểu dạng hoạt động lý luận quan tâm đến như: sử học, xã hội học. Mỗi kiểu dạng lý luận nói trên do mục đích nghiên cứu khác nhau, những vấn đề của nghệ thuật và đánh giá chúng cũng theo các cách không hoàn toàn giống nhau. Nghệ thuật chiếm một phần quan trọng nhất trong đối tượng nghiên cứu của mỹ học, nó được xem xét ở hai phương diện căn bản: bản chất xã hội của nghệ thuật như là biểu hiện các khía cạnh chung nhất của hoạt động thẩm mỹ và đặc trưng thẩm mỹ của nghệ thuật là phương thức, phương tiện phản ánh.
Như vậy, mặc dù có thể có những phương diễn đạt khác nhau về mỹ học, nhưng vẫn có nét cơ bản giống nhau đó là quan niệm mỹ học như một khoa học triết học, nghiên cứu quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực, trong đó có cái đẹp là trung tâm, nghệ thuật là đỉnh cao của quan hệ ấy.
Là một khoa học triết học, mỹ học có quan hệ trước nhất với triết học, nó nhận thế giới quan, phương pháp luận từ triết học. Đối với các nghệ thuật học, tức là các khoa học nghiên cứu loại hình nghệ thuật cụ thể tương ứng, mỹ học lại cung cấp những nguyên lý phổ biến cho chúng. Ngược lại, các nghệ thuật học do bám sát thực tiễn sinh động, cung cấp cho mỹ học những tài liệu, dữ kiện trong loại hình nghệ thuật của mình cho mỹ học, từ đó mỹ học có thể khái quát được những xu hướng vận động và phát triển của đời sống văn hoá nghệ thuật xã hội. Những nhận định của mỹ học giúp cho triết học xây dựng bức tranh tổng thể bằng các quy luật về cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mỹ học còn có quan hệ khá mật thiết với các khoa học khác như văn hoá học, tâm lý học, chính trị học, xã hội học, giáo dục học, tôn giáo học … các quan hệ này dựa trên cơ sở chung là cùng nghiên cứu một đối tượng căn bản: đó chính là con người với các khía cạnh tinh tế và phức tạp của nó. Vì thế khi xem xét về bất cứ vấn đề gì, mỹ học không thể không quan tâm đến những nhận định của các khoa học xã hội và nhân văn khác về nó.
Mỹ học Mác – Lênin là một hệ thống tri thức hoàn chỉnh với ba mảng chính: lịch sử sự phát triển tư tưởng mỹ học, lý luận cơ bản và nghiên cứu mỹ học – triết học ngoài mácxít. Lịch sử tư tưởng mỹ học từ chỗ tìm “mối liên hệ giữa các thời đại” lý giải sự nảy sinh, phát triển và suy vong của các tư tưởng mỹ học cùng với việc dựng lại một cách căn bản các hệ thống lý luận cơ bản mới với đối tượng, các phạm trù, các nguyên lý mới. Trên cơ sở của các nguyên tắc đó mà đánh giá lại những mặt tích, những khía cạnh còn hạn chế của trường phái mỹ học trong lịch sử.