Tuy đã có lịch sử phát triển lâu dài nhưng đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về Bảo hiểm xã hội, BHXH được nhìn nhận dưới nhiều giác độ khác nhau.
1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Từ giác độ pháp luật: Bảo hiểm xã hội là một chế định bảo vệ người lao động sử dụng nguồn đóng góp của mình, đóng góp của người sử dụng lao động (nếu có) và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người lao động được bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động hoặc hết tuổi lao động theo qui định của pháp luật hoặc người lao động bị chết.
Dưới giác độ tài chính: BHXH là quá trình san sẻ rủi ro và san sẻ tài chính giữa những người tham gia BHXH theo qui định của pháp luật.
Theo Luật BHXH Việt Nam năm 2006 (có hiệu lực từ ngày 01-01-2007): BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1: BHXH xét về chính trị, kinh tế là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất, hoặc giảm thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất. Dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà Nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Khái niệm được sử dụng rộng rãi nhất: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
2. Lịch sử ra đời của bảo hiểm xã hội
– Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm xã hội
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại… Để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thỏa mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm… Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh và điều khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng… Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước… Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến thì mối quan hệ kinh tế giữa người lao động làm thuê và giới chủ cũng trở nên phức tạp. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đó phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản… Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ – thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế – xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Như vậy, việc tạo lập quỹ BHXH là cần thiết để đảm bảo nền kinh tế – xã hội phát triển bình thường. Chính các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê nin cũng đã đề cập đến sự cần thiết khách quan của bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng trong đời sống kinh tế. Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô ta”, khi nói về công thức phân phối tổng sản phẩm dưới chủ nghĩa xã hội, Các-Mác đã chỉ ra sự cần thiết phải xây dựng quỹ dự trữ bảo hiểm: “Trong toàn bộ sản phẩm đó, phải khấu trừ một phần để đề phòng những tai nạn, những biến cố do hiện tượng tự nhiên gây ra” (Mác – Ăng Ghen tuyển tập, tập 2, tr.18. NXB Sự thật, Hà nội, 1962).
– Lịch sử ra đời của bảo hiểm xã hội
Mô hình này ở Đức đã lan dần ra châu Âu vào đầu thế kỷ XX, sau đó sang các nước Mỹ La tinh, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu Á, châu Phi và vùng Caribê trong nửa cuối thế kỷ XX. Như vậy, cùng với quá trình phát triển của xã hội, BHXH đã trở thành một trong những quyền cơ bản của con người và được xã hội thừa nhận. Tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 của Liên hợp quốc đã ghi: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thỏa mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người”.
Trong hệ thống ASXH, BHXH ra đời khá sớm. Năm 1850, Thủ tướng Bismack của nước Phổ (nay là CHLB Đức) đã thiết lập hệ thống BHXH ở nước này, các quỹ ốm đau được thành lập (do hội tương tế quản lý) và công nhân bắt buộc phải đóng góp để để phòng khi bị giảm thu nhập do ốm đau. Mới đầu chỉ có giới thợ tham gia và chỉ có bảo hiểm ốm đau, sau đó đã thu hút mọi tầng lớp xã hội và mở rộng ra đối với các trường hợp khác. Luật bảo hiểm y tế được ban hành vào năm 1883. Và năm 1884, ban hành luật bảo hiểm về rủi ro nghề nghiệp (tức TNLĐ và BNN) do hiệp hội giới chủ quản lý. Năm 1889, chính phủ Đức ban hành thêm bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm tàn tật do chính quyền các bang quản lý. Đến thời điểm này, BHXH đã có bước phát triển mới: cơ chế đóng góp ba bên được thực hiện, không chỉ có người lao động mà cả giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp. Tính chất cộng đồng và cùng chia sẻ đảm bảo ASXH đã được quán triệt.
Mô hình này ở Đức đã lan dần ra châu Âu vào đầu thế kỷ XX, sau đó sang các nước Mỹ La tinh, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu Á, châu Phi và vùng Caribê trong nửa cuối thế kỷ XX. Như vậy, cùng với quá trình phát triển của xã hội, BHXH đã trở thành một trong những quyền cơ bản của con người và được xã hội thừa nhận. Tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 của Liên hợp quốc đã ghi: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người”.
2. Bản chất của bảo hiểm xã hội
Với cách hiểu về BHXH như trên, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:
– BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.
– Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt Nam cũng không vượt ra khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là không bình đẳng giữa tất cả những người lao động.
Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, dưới sự bảo trợ của Nhà nước. Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động. Mối quan hệ ràng buộc này chính là đặc trưng riêng có của BHXH. Nó quyết định sự tồn tại, hoạt động và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững.
– Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: Ốm đau, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp… Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản… Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
– Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra cũng được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu… Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia BHXH.
– Mục tiêu của BHXH là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hóa như sau:
- Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
- Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật.
- Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ
Với những mục tiêu trên, BHXH đó trở thành một trong những quyền con người và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10-12-1948 rằng: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thỏa mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, nhu cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người”.
3. Vai trò của bảo hiểm xã hội
a. Đối với người tham gia bảo hiểm
– Đối với người lao động
BHXH là chính sách xã hội được Nhà nước thực hiện đối với NLĐ. Đây là những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất và dịch vụ cho xã hội và là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu dân số quốc gia. Nhờ có BHXH mà rủi ro, bất lợi của NLĐ được dàn trải, từ đó góp phần ổn định thu
nhập, ổn định cuộc sống cho NLĐ và gia đình họ khi NLĐ gặp phải các rủi ro, biến cố như ốm đau, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, sinh đẻ hay về già… Đồng thời, BHXH là chỗ dựa tâm lí giúp NLĐ yên tâm làm việc, gắn bó với đơn vị công tác, từ đó giúp họ phát huy khả năng sáng tạo trong lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động cá nhân.
– Đối với người sử dụng lao động
BHXH không chỉ có vị trí quan trọng với NLĐ mà còn đem lại nhiều lợi ích cho NSDLĐ cả trước mắt và lâu dài, từ đó góp phần duy trì quan hệ lao động ổn định. Như trên đã phân tích, NLĐ được bảo hiểm sẽ yên tâm, phấn khởi công tác, gắn bó với đơn vị công tác, từ đó kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được nâng cao. Đồng thời, nếu chính sách BHXH được thực hiện tốt sẽ giúp giải quyết mâu thuẫn giữa hai giới, hạn chế các hiện tượng đình công, bãi công, biểu tình, từ đó làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục và ổn định. Thêm vào đó, nếu tham gia BHXH, NSDLĐ sẽ không phải bỏ ra những khoản tiền lớn để trợ cấp cho NLĐ khi họ gặp rủi ro liên tiếp, dồn dập trên phạm vi rộng.
b. Đối với xã hội
BHXH là trụ cột trong hệ thống ASXH. Sự vững chắc của hệ thống ASXH ở một quốc gia được phản ánh qua chính sách BHXH của quốc gia đó. Vì BHXH có đối tượng người lao động tham gia rất lớn, đây là những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất và dịch vụ cho xã hội. Khi rủi ro ốm đau, tai nạn, mất việc làm, già yếu xảy ra sẽ đe dọa đến cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình họ, làm ảnh hưởng xấu tới tâm lý của người lao động, từ đó ảnh hưởng tới xã hội. Yếu tố tâm lý của con người luôn đóng vai trò là động lực thúc đẩy phát triển trí tuệ và khả năng khai thác nguồn chất xám trong mỗi con người. Nếu như trong công việc, thu nhập là mục đích chính, là yếu tố kích thích hoạt động sản xuất thì yếu tố tâm lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của sản xuất. Xét trên phương diện kinh tế học và xã hội học thì nhu cầu xã hội làm cho con người luôn phải suy nghĩ, luôn phải lo lắng từ miếng ăn, giấc ngủ, hiện tại, tương lai… Điều này làm cản trở không ít đến khả năng phát huy nội lực của mỗi người. Như vậy, BHXH ra đời và phát triển sẽ tạo tâm lý yên tâm cho người lao động. Khi về già, họ được hưởng tiền lương hưu; khi ốm đau, tai nạn, mất việc làm họ được hưởng trợ cấp, giúp ổn định thu nhập, ổn định đời sống, từ đó làm giảm bớt sự căng thẳng về mặt tâm lý, giúp người lao động an tâm công tác, góp phần làm tăng giá trị thặng dư, tăng hiệu quả của sản xuất, tạo thêm nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội.
Hoạt động BHXH không chỉ đảm bảo vấn đề ASXH mà còn gián tiếp kích thích và làm tăng trưởng nền kinh tế. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, BHXH làm cho người lao động cảm thấy an tâm hơn trong công việc, từ đó nâng cao hiệu quả của sản xuất và làm tăng giá trị sản phẩm trên cơ sở nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.
– Bảo hiểm xã hội điều tiết các chính sách trong hệ thống ASXH
BHXH, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội là những nội dung của chính sách ASXH, do đó đều là những chính sách xã hội quan trọng của mỗi quốc gia. Chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau và tất cả đều góp phần ổn định cuộc sống cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội, từ đó góp phần ổn định xã hội. Khi BHXH phát triển, số đối tượng tham gia và hưởng BHXH được mở rộng sẽ góp phần nâng cao đời sống của người lao động nói riêng và dân cư nói chung, từ đó sẽ góp phần làm giảm số đối tượng được hưởng các chính sách ASXH khác như ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội và làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Như vậy khi kinh tế – xã hội phát triển thì hệ thống BHXH sẽ được mở rộng, lúc này những hình thức trợ giúp khác của xã hội chỉ là cái “lưới” cuối cùng cung cấp các điều kiện tối thiểu cho những người gặp hoàn cảnh khó khăn, bất lợi trong cuộc sống.
Trong hệ thống ASXH, trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động được áp dụng trong trường hợp người lao động bị TNLĐ và BNN. ở một số nước còn áp dụng trong các trường hợp ốm đau, thai sản. Quỹ để chi trả các trường hợp này nằm ngoài quỹ BHXH, nhằm thanh toán các dịch vụ y tế cho người thụ hưởng hoặc chu cấp cho họ một khoản tiền nào đó. Đây là khoản hỗ trợ mà người lao động được nhận ngoài các trợ cấp BHXH đối với cùng một trường hợp. Hệ thống bảo vệ này có nhiều hạn chế và chỉ mang tính chất bổ sung cho BHXH.
Hay trong hệ thống ASXH còn có bộ phận bảo hiểm tự nguyện. Đây là một hình thức hỗ trợ hoặc bổ sung cho các chế độ BHXH bắt buộc trong hệ thống ASXH. Hình thức này nhằm đảm bảo cho những người chưa được tham gia BHXH chính thống có sự bảo vệ ở mức độ nhất định hoặc áp dụng cho những người đã và đang tham gia BHXH bắt buộc để có được mức trợ cấp cao hơn. Vì vậy, BHXH tự nguyện thường được coi là hình thức hỗ trợ, bổ sung cho BHXH triển khai theo hình hức bắt buộc.
Xem thêm: Quỹ bảo hiểm xã hội là gì? Đặc điểm và mục đích sử dụng
4. Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
Sau cách mạng tháng 8 thành công, trên cơ sở Hiếp pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ đã ban hành một loạt các sắc lệnh quy định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân viên chức Nhà nước (có Sắc lệnh 29/SL ngày 12-3-1947; Sắc lệnh 76/SL ngày 20-5-1950 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22-5-1950). Cơ sở pháp lý tiếp theo của BHXH được thể hiện trong Hiến pháp năm 1959. Hiến pháp năm 1959 của nước ta đã thừa nhận công nhân viên chức có quyền được trợ cấp BHXH. Quyền này được cụ thể hoá trong Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước, ban hành kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27- 12-1961 và Điều lệ đãi ngộ quân nhân ban hành kèm theo Nghị định 161/CP ngày 30- 10-1964 của Chính phủ. Suốt trong những năm tháng kháng chiến chống xâm lược, chính sách BHXH nước ta đã góp phần ổn định về mặt thu nhập, ổn định cuộc sống cho công nhân viên chức, quân nhân và gia đình họ, góp phần rất lớn trong việc động viên sức người sức của cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống xâm lược thống nhất đất nước.
Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Sự thay đổi mới về cơ chế kinh tế đòi hỏi có những thay đổi tương ứng về chính sách xã hội nói chung và chính sách BHXH nói riêng. Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ: “Nhà nước thực hiện chế độ BHXH đối với công chức Nhà nước và người làm công ăn lương, khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với người lao động”. Trong văn kiện Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ, cần đổi mới chính sách BHXH theo hướng mọi người lao động và các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp BHXH, thống nhất tách quỹ BHXH ra khỏi ngân sách. Tiếp đến Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII cũng đã nêu lên “Mở rộng chế độ BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế”. Như vậy, các văn bản trên của Đảng và Nhà nước là những cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đổi mới chính sách BHXH nước ta theo cơ chế thị trường. Ngay sau khi Bộ luật lao động có hiệu lực từ ngày 1-1-1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định 12/CP ngày 26-1-1995 về Điều lệ BHXH đối với người lao động trong các thành phần kinh tế. Nội dung của bản điều lệ này góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra góp phần thực hiện công bằng và sự tiến bộ xã hội, góp phần làm lành mạnh hoá thị trường lao động và đồng thời đáp ứng được sự mong mỏi của đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế của cả nước.
Ngày 29 tháng 6 năm 2006, Quốc hội nước ta chính thức thông qua Luật BHXH. Bộ Luật này có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2007. Theo Luật BHXH hiện hành, nước ta thực hiện cả loại hình BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Nhưng BHXH tự nguyện được thực hiện từ ngày 1 tháng 1 năm 2008 với 2 chế độ hưu trí và tử tuất. Bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện từ ngày 1 tháng 1 năm 2009. BHXH bắt buộc thực hiện với 5 chế độ sau đây:
- Trợ cấp ốm đau;
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
- Trợ cấp thai sản;
- Trợ cấp hưu trí;
- Trợ cấp tử tuất.
Nội dung các chế độ nói trên đó có một số thay đổi cơ bản so với trước đây, quỹ BHXH bắt buộc được tách ra thành các quỹ thành phần. Tỷ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động đó được điều chỉnh theo hướng tăng dần. Việc thực thi chính sách BHXH cũng như Luật BHXH đó được các cấp, các ngành quan tâm hơn bao giờ hết.
Tóm lược:
– Bảo hiểm xã hội ra đời trên cơ sở nền kinh tế hàng hoá phát triển và việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến. BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Như vậy, BHXH là một nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp. Nó thể hiện mối quan hệ giữa 3 bên: Bên tham gia, bên BHXH và bên được Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động có thể là ngẫu nhiên hoặc không hoàn toàn ngẫu nhiên. Mục tiêu chính của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm.
– Đối tượng của BHXH là thu nhập của người lao động, còn đối tượng tham gia BHXH chính là người lao động và người sử dụng lao động.
– BHXH bao gồm một hệ thống 9 chế độ, song tuỳ theo điều kiện kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, mà số lượng các chế độ được thực hiện ở mỗi nước là khác Khi xây dựng hệ thống các chế độ cũng như từng chế độ phải dựa trên những cơ sở khoa học và thực tế như: điều kiện kinh tế – xã hội, cơ sở sinh học, điều kiện môi trường và an toàn vệ sinh lao động; xác suất tử vong và tai nạn lao động; tuổi thọ bình quân của quốc gia… Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm riêng biệt mà các chính sách xã hội khác không có.
(Nguồn: neu.topica.vn)