Trang chủ Bảo hiểm Bảo hiểm là gì? Bản chất, các loại hình và vai trò

Bảo hiểm là gì? Bản chất, các loại hình và vai trò

by Ngo Thinh
Published: Last Updated on 207 views

1. Khái niệm bảo hiểm

Mặc dù ra đời từ khá sớm, song cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về bảo hiểm, bởi vì người ta đã đưa ra khái niệm về bảo hiểm ở nhiều góc độ khác nhau.

– Dưới góc độ tài chính, người ta cho rằng: “Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những chi phí mất mát không mong đợi”.

– Dưới góc độ pháp lý, giáo sư Hemard đưa ra khái niệm: “Bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó, một bên là người được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền (phí bảo hiểm hay đóng góp bảo hiểm) cho chính mình hoặc cho một người thứ ba khác để trong trường hợp rủi ro xảy ra, sẽ được trả một khoản tiền bồi thường từ một bên khác là người được bảo hiểm, người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù những thiệt hại theo Luật Thống kê”.

– Dưới góc độ kinh doanh bảo hiểm, các công ty, các tập đoàn bảo hiểm thương mại trên thế giới lại đưa ra khái niệm: “Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm”…

Có thể nói, các khái niệm trên ít nhiều đã lột tả được bản chất của bảo hiểm trên các khía cạnh về rủi ro, sự chuyển giao rủi ro giữa người được bảo hiểm và người bảo hiểm thông qua phí bảo hiểm và số tiền bồi thường hoặc chi trả khi người được bảo hiểm gặp phải rủi ro tổn thất. Cũng trên cơ sở các khía cạnh đó, khái niệm về bảo hiểm có thể được hiểu như sau: “Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính, thông qua đó một cá nhân hay một tổ chức có quyền được hưởng bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm nếu rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra nhờ vào khoản đóng góp phí bảo hiểm cho mình hay cho người thứ ba. khoản tiền bồi thường hoặc chi trả này do một tổ chức đảm nhận, tổ chức này có trách nhiệm trước rủi ro hay sự kiện bảo hiểm và bù trừ chúng theo quy luật thống kê”.

Đây là khái niệm mang tính chung nhất của bảo hiểm, bởi vì nó đã bao quát được phạm vi và nội dung của tất cả các loại hình bảo hiểm (Bảo hiểm thương mại, Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm thất nghiệp và Bảo hiểm y tế).

Bảo hiểm là gì?

2. Bản chất của bảo hiểm

Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định cuộc sống và sản xuất cho những người tham gia, và kiến tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Chính vì vậy, bản chất của bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm quốc nội giữa những người tham gia bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu về tài chính phát sinh khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm. Tuy nhiên, phân phối trong bảo hiểm chủ yếu là phân phối không đều, và phần lớn không mang tính bồi hoàn trực tiếp (loại trừ một số loại hình bảo hiểm, như: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tiền hưu trí).

Ngoài ra, bản chất của bảo hiểm còn được thể hiện ở các khía cạnh cụ thể sau đây:

– Rủi ro và sự tồn tại của rủi ro là nguồn gốc của bảo hiểm. Có nhiều cách tiếp cận khái niệm rủi ro, song theo nghĩa thông dụng nhất thì rủi ro là biến cố gây thiệt hại và không mong đợi. Để đối phó với rủi ro, con người luôn phải tìm cách phòng vệ. Trong bảo hiểm hiện đại, bên cạnh rủi ro còn có các sự kiện liên quan đến bảo hiểm, như: sự kiện sinh đẻ của lao động nữ, người lao động đến tuổi nghỉ hưu hay người được bảo hiểm còn sống đến một thời điểm xác định trên hợp đồng BHNT…

– Cơ chế chuyển giao rủi ro trong bảo hiểm được thực hiện giữa bên tham gia bảo hiểm và bên bảo hiểm thông qua các cam kết bảo hiểm. Theo cơ chế này, bên tham gia phải nộp phí bảo hiểm và bên bảo hiểm cam kết bồi thường hay chi trả tiền bảo hiểm khi đối tượng bảo hiểm hay người được bảo hiểm gặp phải rủi ro hay sự kiện bảo hiểm. Tất nhiên, rủi ro hay sự kiện bảo hiểm phải là ngẫu nhiên, khách quan mà hai bên đã thỏa thuận.

– Phí bảo hiểm mà bên tham gia nộp cho bên bảo hiểm phải được thực hiện trước khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy Ngược lại, khoản tiền mà bên bảo hiểm trả cho bên tham gia hay cho người thứ ba chỉ được thực hiện sau khi sự kiện bảo hiểm hay rủi ro xảy ra gây tổn thất. Khái niệm người thứ ba trong bảo hiểm thường được pháp luật quy định trong loại hình BHTM.

– Việc san sẻ rủi ro, bù trừ tổn thất trong bảo hiểm được bên bảo hiểm tính toán và quản lý dựa vào số liệu thống kê rủi ro và tình hình tổn thất, cũng như quỹ bảo hiểm mà họ thiết lập được dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít.

– Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính chứ không phải là hoạt động sản xuất. Chính vì vậy, lợi ích của các bên phải được luật hóa rất cụ thể và vai trò quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này là rất quan trọng và không thể thiếu được đối với mỗi quốc

3. Các loại hình bảo hiểm

Hiện nay trên thế giới có 4 loại hình bảo hiểm, đó là: Bảo hiểm thương mại (BHTM); Bảo hiểm xã hội (BHXH); Bảo hiểm y tế (BHYT) và Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). tùy theo điều kiện kinh tế – xã hội và mô hình tổ chức ngành bảo hiểm mà mỗi nước có thể triển khai tất cả hoặc chỉ triển khai một số loại hình trong số 4 loại hình bảo hiểm nói trên.

3.1. Bảo hiểm xã hội

BHXH là loại hình bảo hiểm đóng vai trò hết sức quan trọng, liên quan trực tiếp đến người lao động và người sử dụng lao động. Hoạt động BHXH không nhằm mục đích kiếm lời và chịu sự chi phối chủ yếu của Luật BHXH cũng như định hướng chính sách kinh tế – xã hội của từng quốc gia. BHXH có tính cộng đồng xã hội, tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc và là trụ cột chính của hệ thống ASXH của mỗi nước.

BHXH ra đời từ giữa thế kỷ 19. Năm 1850 một số bang của nước Phổ (Cộng hoà liên bang Đức ngày nay) lần đầu tiên đã thành lập quỹ trợ giúp nỗi đau. Năm 1883, họ lại tiếp tục ban hành Luật BHYT và bảo hiểm TNLĐ, sau đó là đạo luật về hưu trí. Người khởi xướng đạo luật này là Tể tướng Bismark, với cơ chế 3 bên (nhà nước – giới chủ – giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo vệ cho người lao động trong các trường hợp gặp rủi ro. Ở Pháp, ý tưởng về bảo hiểm TNLĐ cho công nhân ngành đường sắt đã được Klaves taing đề xuất năm 1850 nhưng đã bị giới thượng lưu từ chối, bác bỏ. Đầu năm 1860, ông buộc phải chuyển sang Bỉ để thành lập một công ty của mình là Dveservatrice. Nửa đầu thế kỷ 20, BHXH phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước Châu Âu và cả ở Bắc Mỹ. Tại Mỹ, năm 1935 đã ban hành đạo luật về ASXH với nội dung đều tương tự như các chế độ BHXH ngày nay. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Liên Hợp quốc được thành lập (1945) và một loạt các công ước, các khuyến nghị về BHXH đã được khuyến cáo. Ngày 04 tháng 6 năm 1952, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thuộc Liên Hợp quốc đã ký công ước Giơ ne vơ (Công ước số 102) về “BHXH cho người lao động” và khuyến nghị các nước thực hiện BHXH cho người lao động tùy theo khả năng và điều kiện kinh tế – xã hội của mình. Từ đó, hầu hết các nước trên thế giới tham gia công ước đã vận dụng và ban hành chính sách BHXH cho người lao động và BHXH đã không ngừng phát triển cho đến ngày nay.

Xem thêm: Bảo hiểm xã hội là gì? Bản chất và vai trò của BHXH

3.2. Bảo hiểm y tế

BHYT có thể được triển khai độc lập với các loại hình bảo hiểm khác và cũng có thể chỉ là một chế độ trong hệ thống các chế độ BHXH. Về cơ bản, loại hình bảo hiểm này mang đầy đủ tính chất của BHXH. Xã hội càng phát triển và văn minh thì BHYT cũng ngày càng phát triển, bởi nhu cầu được bảo vệ, được chăm sóc sức khỏe, được khám chữa bệnh một cách bình đẳng là

những nhu cầu chính đáng và có tính xã hội rất cao – đối với mọi tầng lớp dân cư. BHYT ra đời vào cuối thế kỷ 19 ở Cộng hoà liên bang Đức và một số nước Châu Âu. Trong giai đoạn đầu của sự phát triển (1883 – 1914), BHYT chỉ được tổ chức mang tính đơn lẻ nhằm giúp đỡ lẫn nhau khi người lao động và gia đình họ gặp những rủi ro về sức khỏe. Sau đó, BHYT đã được một số nước Châu Âu ban hành những đạo luật riêng. Năm 1941, BHYT đã được luật hóa tương đối chặt chẽ ở CHLB Đức và sau đó phát triển sang các nước Bắc Mỹ, Châu Á và vùng Caribê. Từ khi có công ước 102 về BHXH đến nay, có một số nước triển khai BHYT độc lập và cũng có khá nhiều nước coi BHYT chỉ là chế độ chăm sóc y tế ban đầu nằm trong hệ thống các chế độ BHXH.

Xem thêm: Bảo hiểm y tế là gì? Vai trò, quyền lợi và đối tượng bảo hiểm

3.3. Bảo hiểm thất nghiệp

BHTN cũng có thể được triển khai độc lập với các loại hình bảo hiểm khác và cũng có thể triển khai kết hợp với BHXH. Khi triển khai kết hợp, nó chỉ là một chế độ trong hệ thống các chế độ BHXH. Vì thế, mục đích, đối tượng và tính chất của BHTN cũng tương tự như BHXH. Có thể nói, Châu Âu là cái nôi của tất cả các loại hình bảo hiểm, trong đó có cả BHTN. BHTN ra đời năm 1883 tại Thụy Sỹ và xuất phát nghề thuỷ tinh và gốm sứ. Năm 1990 và 1910 Na Uy và Đan Mạch lần đầu tiên ban hành các đạo luật về BHTN, tiếp đến là Anh, Mỹ và Canada. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, BHTN cũng được một số nước triển khai độc lập và khá nhiều nước coi BHTN chỉ là một chế độ BHXH thuần tuý. Mặc dù vậy, nội dung, tính chất và cách thức quản lý đều tương tự nhau. Theo số liệu của ILO năm 2005, trên thế giới có 72 nước triển khai BHTN và trợ cấp thất nghiệp cho người lao động.

Xem thêm: Bảo hiểm thất nghiệp là gì? Đối tượng, điều kiện và mức hưởng trợ cấp

3.4. Bảo hiểm thương mại

Nội dung về bảo hiểm thương mại sẽ được trình bày trong phần dưới.

4. Bảo hiểm thương mại

4.1. Khái niệm bảo hiểm thương mại

Bảo hiểm thương mại (BHTM) còn được gọi là bảo hiểm rủi ro hay bảo hiểm kinh doanh, được hiểu là sự kết hợp giữa hoạt động kinh doanh với việc quản lý các rủi ro của các cá nhân và các tổ chức trong xã hội. Manh nha của hoạt động này có từ rất lâu trong lịch sử văn minh nhân loại, từ thủa con người biết săn bắn tìm kiếm thức ăn, đồ mặc, rồi tích trữ phòng khi không kiếm được hay khi có chiến tranh… Khi xã hội phát triển hơn, nhu cầu được bảo đảm an toàn cũng lớn hơn. Với những tác dụng vô cùng thiết thực đối với các cá nhân, các tổ chức và toàn cộng đồng, hoạt động BHTM càng khẳng định sự có mặt không thể thiếu được trong cuộc sống của con người.

BHTM là loại hình bảo hiểm kinh doanh với mục tiêu chính là lợi nhuận. Hoạt động kinh doanh BHTM chịu sự chi phối chủ yếu của Luật Kinh doanh Bảo hiểm, các điều ước và tập quán quốc tế. Phạm vi hoạt động kinh doanh BHTM rất rộng do đối tượng của nó chi phối. BHTM là loại hình bảo hiểm chủ yếu và rất phát triển. Đã từ lâu, BHTM không chỉ xâm nhập vào các hoạt động kinh tế – xã hội ở phạm vi một nước mà nó còn phát triển và mở rộng ra phạm vi thế giới thông qua hoạt động tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm…

Cho đến nay, câu hỏi “bảo hiểm thương mại là gì?” có thể được trả lời theo nhiều cách tiếp cận khác nhau. Nếu xét từ góc độ pháp lý, “bảo hiểm là một thỏa thuận, qua đó bên tham gia bảo hiểm cam kết trả cho doanh nghiệp bảo hiểm một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm; Ngược lại, doanh nghiệp bảo hiểm cũng cam kết sẽ chi trả hoặc bồi thường một khoản tiền khi có rủi ro được bảo hiểm xảy ra gây tổn thất”. Nhìn nhận bảo hiểm dưới góc độ quản lý rủi ro, một tập đoàn bảo hiểm lớn của Mỹ cho rằng: “Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm, công ty đó sẽ chi trả bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm” (AIG). Dưới góc độ kỹ thuật bảo hiểm, có thể hiểu BHTM là biện pháp chia nhỏ tổn thất của một hay một số ít người khi gặp một loại rủi ro dựa vào một quĩ chung bằng tiền được lập bởi sự đóng góp của nhiều người cùng có khả năng gặp rủi ro đó thông qua hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Bằng cách chia nhỏ tổn thất như vậy, hậu quả lẽ ra rất nặng nề, nghiêm trọng với một hoặc một số người sẽ trở nên không đáng kể có thể chấp nhận được đối với cả cộng đồng những người tham gia bảo hiểm. BHTM, ở một phương diện khác, chính là tổng thể các mối quan hệ kinh tế giữa các đơn vị và các cá nhân tham gia bảo hiểm với các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm khắc phục hậu quả do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra để ổn định đời sống và khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh.

4.2. Sơ lược lịch sử phát triển của bảo hiểm thương mại

Sự ra đời và quá trình phát triển của BHTM được thể hiện ở những loại hình bảo hiểm chủ yếu dưới đây:

– Bảo hiểm hàng hải. Bảo hiểm mà chúng ta biết tới hôm nay bắt đầu từ loại hình bảo hiểm hàng hải. Tại Genor và Venice tỉnh Lombardy nước Italia người ta đã tìm thấy bản HĐBH đầu tiên ký kết giữa các thương gia, các chủ tàu với các nhà bảo hiểm vào ngày 23/10/1347. Đến năm 1385, người ta lại tìm thấy một bản HĐBH nhằm bảo hiểm cho những tổn thất của hàng hóa và tàu thuyền do các nguyên nhân bất khả kháng, tai nạn trên biển, hỏa hoạn, hàng hóa bị vứt bỏ xuống biển, bị chính quyền hoặc các cá nhân tịch thu, bị trả đũa hay do gặp phải bất kỳ rủi ro nào (CLayton, Bảo hiểm Anh 1971). Tại nước Anh, HĐBH đầu tiên được tìm thấy và còn lưu giữ đến ngày nay được ký kết năm 1547. Đây cũng là một HĐBH hàng hải.

– Bảo hiểm nhân thọ. Đây là loại hình bảo hiểm rất thông dụng và phát triển khá nhanh trên thế giới. Hợp đồng BHNT đầu tiên được ký kết tại nước Anh vào năm 1583. Các công ty BHNT cũng xuất hiện lần đầu tại nước Anh vào giữa thế kỷ Ngày nay BHNT đã được triển khai ở hầu hết các nước trên thế giới.

– Bảo hiểm hỏa hoạn. Các nhà bảo hiểm trên thế giới đều cho rằng, BHHH xuất hiện lần đầu tại Hamburg (CHLB Đức). Tuy nhiên, điều làm cho BHHH phát triển nhanh chóng cho đến ngày nay là vụ cháy lớn tại Luôn Đôn năm 1666. Sau vụ cháy này các thương gia, các tổ chức bắt đầu quan tâm đến rủi ro bảo hiểm. Vào năm 1670, ông Barbon người Anh đã thành lập công ty BHHH đầu tiên trên thế giới. Công ty chỉ bảo hiểm cho các căn nhà xây bằng gạch. Tại Mỹ, Công ty BHHH đầu tiên ra đời năm 1732. Công ty này bảo hiểm cho cả nhà cửa và bất động sản trong dân chúng. Với cái tên lúc đầu chỉ là “Tổ chức thân thiện”. Năm 1752 Benjamin Franklin thành lập Công ty BHHH với cái tên “Đóng góp bảo hiểm cho nhà cửa do hỏa hoạn Philadephia”.

– Bảo hiểm tai nạn. Loại hình này chính thức ra đời vào đầu thế kỷ 19. Năm 1848 tờ thời báo nước Anh đưa tin rằng, hầu như ngày nào cũng xảy ra tai nạn đường sắt. Những tai nạn này thường dẫn đến thương tật hoặc tử Năm 1849 công ty bảo hiểm hành khách đường sắt đã được thành lập tại Anh quốc để bảo hiểm cho mọi hành khách đi trên tàu hỏa.

– Bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 cho đến nay, còn có rất nhiều loại hình BHTM khác đã ra đời, như: bảo hiểm kỹ thuật, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm hàng không, bảo hiểm dầu khí, bảo hiểm vệ tinh… Và cũng từ cuối thế kỷ 19 đến nay, BHTM đã thực sự trở thành một ngành kinh doanh phát triển và không thể thiếu được đối với mỗi quốc gia.

4.3. Nguyên tắc hoạt động bảo hiểm thương mại

Với tính chất của một hoạt động kinh doanh, BHTM đáp ứng cho các nhu cầu an toàn của con người và đồng thời nhằm đạt tới mục tiêu cao nhất là lợi nhuận. Bởi vậy, việc tiến hành hoạt động BHTM phải tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản sau.

* Nguyên tắc 1: Số đông bù số ít

– Hoạt động BHTM chính là một hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm nhận một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để rồi có khả năng sẽ phải trả một khoản tiền cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Khoản tiền bồi thường hay chi trả này thường lớn hơn gấp nhiều lần so với khoản phí mà các doanh nghiệp bảo hiểm nhận được. Để làm được điều này, hoạt động BHTM phải dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. Đây là nguyên tắc xuyên suốt, không thể thiếu được trong bất kỳ một nghiệp vụ BHTM nào, theo đó hậu quả của rủi ro xảy ra đối với một hoặc một số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy động được từ rất nhiều người có khả năng cùng gặp rủi ro như vậy.

– Thông qua việc huy động đủ số phí cần thiết để giải quyết chi bồi thường cho các tổn thất có thể xảy ra trong cộng đồng những người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm đã thực hiện việc bù trừ rủi ro theo qui luật số lớn. Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia bảo hiểm thì quĩ bảo hiểm tích tụ được càng lớn, việc chi trả càng trở nên dễ dàng hơn, rủi ro được san sẻ cho nhiều người hơn. Thông thường, một sản phẩm bảo hiểm chỉ có thể được triền khai khi có nhiều nhu cầu về cùng một loại bảo đảm đó.

* Nguyên tắc 2: Rủi ro có thể được bảo hiểm

– Hoạt động BHTM cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho những cá nhân và tổ chức có nhu cầu. Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp, doanh nghiệp bảo hiểm đều chấp nhận các yêu cầu bảo đảm. Hiếm có doanh nghiệp bảo hiểm nào đồng ý thỏa thuận bồi thường cho các trường hợp tổn thất gây ra do sự cố ý của người được bảo hiểm. Cũng vậy, doanh nghiệp bảo hiểm thật khó chấp nhận bảo đảm cho những thiệt hại vật chất của một chiếc xe ôtô ở trong tình trạng không an toàn về kỹ thuật hay không được phép lưu hành.

– Đây là một nguyên tắc không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, các rủi ro đã xảy ra, chắc chắn hoặc gần như chắc chắn sẽ xảy ra thì bị từ chối bảo hiểm: hao mòn vật chất tự nhiên, hao hụt thương mại tự nhiên, xe vi phạm nghiêm trọng luật giao thông, cố ý tự tử… Nói cách khác, những rủi ro có thể được bảo hiểm phải là những rủi ro bất ngờ, không lường trước được. Với rủi ro bị chết là rủi ro chắc chắn xảy ra thì yếu tố ngẫu nhiên được xem xét để bảo hiểm là thời điểm chết. Thêm vào đó, nguyên nhân gây ra rủi ro có thể được bảo hiểm phải là nguyên nhân khách quan, không cố ý. Tính đồng nhất của rủi ro là một yếu tố khác giúp doanh nghiệp bảo hiểm có thể xem xét rủi ro có thể được bảo hiểm hay không. Trên cơ sở tính đồng nhất của rủi ro doanh nghiệp bảo hiểm có thể tính toán được phí bảo hiểm một cách chính xác và khoa học dựa vào các phương pháp toán học.

– Để bảo đảm nguyên tắc này, trong đơn bảo hiểm luôn có các rủi ro loại trừ tùy thuộc vào từng nghiệp vụ bảo hiểm khác Đối với các rủi ro được nhận bảo hiểm lại có thể xem xét để phân loại, sắp xếp theo từng mức độ khác nhau (nếu cần thiết) và áp dụng các mức phí thích hợp. Đối với các rủi ro có xác suất xảy ra lớn hơn thì mức phí phải nộp cao hơn. Chẳng hạn trong bảo hiểm nhân thọ (BHNT), những người không ở cùng độ tuổi sẽ có xác suất tử vong khác nhau do đó phải đóng mức phí khác nhau. Chính vì vậy, một yêu cầu đặt ra đối với người tham gia bảo hiểm là phải trung thực tuyệt đối khi khai báo rủi ro để doanh nghiệp bảo hiểm có thể xác định chính xác rằng rủi ro đó có thể chấp nhận bảo hiểm hay không, nếu có thì với mức phí như thế nào.

– Nguyên tắc rủi ro có thể bảo hiểm nhằm tránh cho doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho những tổn thất thấy trước mà với nhiều trường hợp như vậy chắc chắn sẽ dẫn đến phá sản. Đồng thời nguyên tắc này cũng giúp các doanh nghiệp bảo hiểm có thể tính được các mức phí chính xác, lập nên được một quĩ bảo hiểm đầy đủ để bảo đảm cho công tác bồi thường. Không chỉ bảo đảm quyền lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm mà ngay chính những người tham gia bảo hiểm cũng thấy công bằng hơn khi nguyên tắc này được áp dụng.

* Nguyên tắc 3: Phân tán rủi ro

– Là người nhận các rủi ro được chuyển giao từ người tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm lúc này sẽ là người phải đối mặt với những tổn thất có thể rất lớn nếu rủi ro xảy Mặc dù quĩ bảo hiểm là một quĩ tài chính lớn, được lập ra bởi sự đóng góp của nhiều người theo nguyên tắc số đông và như vậy, với tư cách là người huy động và quản lý quĩ, các doanh nghiệp bảo hiểm có khả năng thực hiện nhiệm vụ chi trả bảo hiểm. Nhưng trên thực tế, không phải lúc nào doanh nghiệp bảo hiểm cũng luôn đảm bảo được khả năng này. Điều này có thể thấy rất rõ với những trường hợp quĩ bảo hiểm huy động được còn chưa nhiều (doanh nghiệp bảo hiểm mới thành lập hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có qui mô nhỏ) trong khi đó giá trị bảo hiểm (GTBH) lại rất lớn hoặc với những trường hợp có rủi ro liên tiếp xảy ra gây tổn thất lớn.

– Một kinh nghiệm trong hoạt động của các nhà BHTM là không nhận những rủi ro quá lớn, vượt quá khả năng tài chính của công ty. Tuy nhiên, để tránh được điều tối kị là phải từ chối bảo hiểm đồng thời vẫn bảo đảm được hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng nguyên tắc phân tán rủi ro. Có hai phương thức phân tán rủi ro được sử dụng: đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. Nếu trong đồng bảo hiểm, nhiều nhà bảo hiểm cùng nhận bảo đảm cho một rủi ro lớn thì tái bảo hiểm lại là phương thức trong đó, một nhà bảo hiểm nhận bảo đảm cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt một phần rủi ro cho một hoặc nhiều nhà bảo hiểm khác.

* Nguyên tắc 4: Trung thực tuyệt đối

– Nguyên tắc này được thể hiện ngay từ khi doanh nghiệp bảo hiểm nghiên cứu để soạn thảo một HĐBH đến khi phát hành, khai thác bảo hiểm và thực hiện giao dịch kinh doanh với khách hàng (người tham gia bảo hiểm).

– Trước hết, nguyên tắc trung thực tuyệt đối đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải có trách nhiệm cân nhắc các điều kiện, điều khoản để soạn thảo hợp đồng bảo đảm cho quyền lợi của hai bên. Sản phẩm cung cấp của nhà bảo hiểm là sản phẩm dịch vụ nên khi mua, người tham gia bảo hiểm không thể cầm nắm nó trong tay như các sản phẩm vật chất khác để đánh giá chất lượng và giá cả… mà chỉ có thể có được một hợp đồng hứa sẽ bảo đảm. Chất lượng sản phẩm bảo hiểm có bảo đảm hay không, giá cả (phí bảo hiểm) có hợp lý hay không, quyền lợi của người được bảo hiểm có đảm bảo đầy đủ, công bằng hay không… đều chủ yếu dựa vào sự trung thực của phía doanh nghiệp bảo hiểm.

– Ngược lại, nguyên tắc này cũng đặt ra một yêu cầu với người tham gia bảo hiểm là phải trung thực khi khai báo rủi ro khi tham gia bảo hiểm để giúp doanh nghiệp bảo hiểm xác định mức phí phù hợp với rủi ro mà họ đảm nhận. Thêm vào đó, các hành vi gian lận nhằm trục lợi bảo hiểm khi thông báo, khai báo các thiệt hại để đòi bồi thường (khai báo lớn hơn thiệt hại thực tế; sửa chữa ngày tháng của HĐBH…) sẽ được xử lý theo pháp luật.

* Nguyên tắc 5: Quyền lợi có thể được bảo hiểm

– Nguyên tắc này yêu cầu người tham gia bảo hiểm phải có lợi ích tài chính bị tổn thất nếu đối tượng được bảo hiểm gặp rủi ro. Nói cách khác, người tham gia bảo hiểm phải có một số quan hệ với đối tượng được bảo hiểm và được pháp luật công nhận. Mối quan hệ có thể biểu hiện qua quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản, quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm. Cần chú ý rằng khi quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tài sản được bảo hiểm thuộc hai chủ thể khác nhau thì vấn đề sẽ phức tạp hơn. Trong trường hợp này, cả chủ sở hữu và chủ sử dụng đều có quyền lợi được bảo hiểm. Chẳng hạn, chủ xưởng sửa chữa ôtô có quyền hợp pháp khi tham gia bảo hiểm cho chiếc xe ôtô mà anh ta đang đảm nhận sửa chữa. Đó là quyền chiếm hữu. Đồng thời chủ xe ôtô cũng có thể tham gia bảo hiểm cho chiếc xe này.

– Nguyên tắc về quyền lợi có thể được bảo hiểm nhằm loại bỏ khả năng bảo hiểm cho tài sản của người khác, hoặc cố tình gây thiệt hại hoặc tổn thất để thu lợi từ một đơn bảo hiểm.

Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, trong mỗi một loại hình BHTM sẽ có thêm các nguyên tắc khác phù hợp với đặc điểm của từng loại như nguyên tắc bồi thường, nguyên tắc khoán…

4.4. Phân loại bảo hiểm thương mại

Trên thị trường bảo hiểm thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều sản phẩm bảo hiểm khác nhau. Dựa vào các tiêu thức khác nhau, các sản phẩm bảo hiểm được phân loại thành từng nhóm có cùng đặc trưng. Việc phân loại như vậy trước hết sẽ thuận lợi hơn cho công tác nghiên cứu và phát triển các sản phẩm bảo hiểm khác nhau. Mặt khác, phân loại bảo hiểm giúp các doanh nghiệp bảo hiểm quản lý tốt nghiệp vụ, tổ chức hoạt động kinh doanh có hiệu quả.

Phân loại BHTM thường căn cứ vào ba tiêu thức chủ yếu sau:

– Theo phương thức quản lý: BHTM có thể phân loại thành bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc. Phần lớn các sản phẩm BHTM đều là bảo hiểm tự nguyện. Việc tham gia bảo hiểm hay phụ thuộc vào nhận thức và nhu cầu của người tham gia bảo hiểm.

Các doanh nghiệp bảo hiểm có đáp ứng được hay không cũng tùy thuộc vào khả năng tài chính, trình độ kỹ thuật nghiệp vụ của công ty đó. Trong khi đó, bảo hiểm bắt buộc bao gồm các sản phẩm bảo hiểm mà luật pháp có những qui định về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và các doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ phải thực hiện. Bảo hiểm bắt buộc thường gắn với các rủi ro có hậu quả tổn thất không chỉ ảnh hưởng đến một đối tượng hay một chủ thể mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của toàn xã hội. Ví dụ như bảo hiểm trách nhiệm dân sự (BHTNDS) chủ xe cơ giới, BHTNDS của chủ lao động đối với người lao động…

– Theo kỹ thuật bảo hiểm: Các đặc trưng kỹ thuật được dùng làm căn cứ để phân loại BHTM thành bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia và bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích. Bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia là các bảo hiểm có thời hạn ngắn (thường là một năm) bảo đảm cho các rủi ro có tính chất tương đối ổn định và độc lập với tuổi thọ con người. Khi có rủi ro được bảo hiểm phát sinh trong thời hạn hợp đồng thì quĩ bảo hiểm được sử dụng để chi trả luôn. Bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm các bảo hiểm về tài sản, về trách nhiệm dân sự và các bảo hiểm con người phi nhân thọ khác chính là loại bảo hiểm theo kỹ thuật phân Kết quả thu – chi của các bảo hiểm này được phân bổ hết hàng năm.

Bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích có đặc trưng là thời hạn dài, quĩ được tích tụ qua nhiều năm mới được sử dụng để chi trả. Bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích thường bảo đảm cho các rủi ro có tính chất thay đổi rõ rệt theo thời gian và đối tượng, và thường gắn liền với tuổi thọ con người. BHNT thuộc loại bảo hiểm có kỹ thuật tổn tích.

– Theo đối tượng được bảo hiểm: Tiêu thức này cho phép phân chia BHTM thành ba loại chủ yếu: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm con người. Cũng căn cứ vào đối tượng được bảo hiểm, nhưng nếu phân loại một cách chi tiết hơn, BHTM có thể được phân chia thành: bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm phi hàng hải, bảo hiểm trách nhiệm pháp lý, bảo hiểm xe cơ giới…

Sau đây là ba loại bảo hiểm được phân chia theo đối tượng được bảo hiểm: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm con người.

a. Bảo hiểm tài sản

Đây là loại bảo hiểm mà đối tượng là tài sản của người được bảo hiểm. Ví dụ: bảo hiểm cho thiệt hại vật chất xe cơ giới, bảo hiểm hàng hóa của các chủ hàng trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm tài sản của ông chủ nhà trong bảo hiểm trộm cắp.

Một số vấn đề liên quan đến BHTS:

– Áp dụng nguyên tắc bồi thường khi thanh toán chi trả bảo hiểm. Số tiền bồi thường (STBT) mà người được bảo hiểm nhận được trong mọi trường hợp không vượt quá thiệt hại thực tế trong sự cố bảo hiểm. Ví dụ, một chủ xe máy tham gia bảo hiểm cho toàn bộ chiếc xe của mình trị giá 20 triệu đồng. Trong một vụ tai nạn, xe bị hư hỏng giá trị thiệt hại là 8 triệu đồng, STBT mà chủ xe nhận được trong bất kỳ trường hợp nào cũng chỉ là 8 triệu đồng.

– Áp dụng “nguyên tắc thế quyền hợp pháp” khi xuất hiện người thứ ba có lỗi và do đó có trách nhiệm đối với thiệt hại của người được bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, sau khi trả tiền bồi thường, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ được thay quyền của người được bảo hiểm để thực hiện việc truy đòi trách nhiệm của người thứ ba có lỗi. Nguyên tắc thế quyền hợp pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người được bảo hiểm, chống lại hành vi rũ bỏ trách nhiệm của người thứ ba có lỗi, đồng thời đảm bảo cả nguyên tắc bồi thường.

– Lấy lại ví dụ trên, trong vụ tai nạn này, lỗi một phần là của một xe ô tô đi ngược chiều (70%). Lúc này, với thiệt hại 8 triệu đồng của chủ xe máy, trách nhiệm của ông chủ xe ô tô sẽ là: 70% ´ 8 triệu đồng = 5,6 triệu đồng. Sau khi bồi thường 8 triệu đồng theo HĐBH vật chất xe cho chủ xe máy, doanh nghiệp bảo hiểm được thay quyền của chủ xe máy này truy đòi trách nhiệm 5,6 triệu từ chủ xe ô tô. Nguyên tắc thế quyền được áp dụng. Và người được bảo hiểm trong ví dụ này (chủ xe máy) cũng không thể nhận STBT vượt quá thiệt hại 8 triệu đồng, như vậy nguyên tắc bồi thường được đảm bảo.

– Tuy nhiên, có một số ngoại lệ khi áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp. Đó là khi người thứ ba gây lỗi là trẻ em, hoặc là con cái, vợ chồng, cha mẹ… của người được bảo hiểm.

– Bảo hiểm trùng: Trong BHTS, nếu một đối tượng bảo hiểm đồng thời được bảo đảm bằng nhiều HĐBH cho cùng một rủi ro với những doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau, những HĐBH này có điều kiện bảo hiểm giống nhau, thời hạn bảo hiểm trùng nhau, và tổng STBH từ tất cả những hợp đồng này lớn hơn giá trị của đối tượng bảo hiểm đó thì gọi là bảo hiểm trùng.

– Trong trường hợp có bảo hiểm trùng, tùy thuộc vào nguyên nhân xảy ra để giải quyết. Thông thường, bảo hiểm trùng liên quan đến sự gian lận của người tham gia bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm. Do đó, về nguyên tắc, doanh nghiệp bảo hiểm có thể huỷ bỏ HĐBH nếu phát hiện thấy bảo hiểm trùng có gian lận. Nếu các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bồi thường thì lúc này, trách nhiệm của mỗi công ty đối với tổn thất sẽ được phân chia theo tỷ lệ trách nhiệm mà họ đảm nhận. Cụ thể:

Trên thực tế, một trong số các doanh nghiệp bảo hiểm đã cấp hợp đồng cho đối tượng được bảo hiểm trùng này có thể sẽ đứng ra bồi thường theo số thiệt hại thực tế, sau đó sẽ đòi lại các doanh nghiệp bảo hiểm khác phần trách nhiệm của họ.

 Chế độ bồi thường bảo hiểm

Chế độ bảo hiểm theo mức miễn thường

Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với những tổn thất mà giá trị thiệt hại thực tế vượt quá một mức đã thỏa

thuận gọi là mức miễn thường. Việc áp dụng bảo hiểm theo mức miễn thường thể là tự nguyện hoặc bắt buộc. Nếu giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm thỏa thuận sẽ không bồi thường đối với những tổn thất nhỏ hơn mức miễn thường trên cơ sở tự nguyện thì phí bảo hiểm sẽ được giảm bớt phụ thuộc vào mức miễn thường cụ thể. Trong trường hợp miễn thường bắt buộc, phí bảo hiểm vẫn giữ nguyên. Bảo hiểm theo mức miễn thường không chỉ tránh cho doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường những tổn thất quá nhỏ so với GTBH mà còn có ý nghĩa trong việc nâng cao ý thức và trách nhiệm đề phòng hạn chế rủi ro của người được bảo hiểm.

Có hai loại miễn thường: Miễn thường không khấu trừ và miễn thường có khấu trừ. Chế độ bảo hiểm miễn thường không khấu trừ bảo đảm chi trả cho những thiệt hại thực tế vượt quá mức miễn thường nhưng STBT sẽ không bị khấu trừ theo mức miễn thường.

STBT = Giá trị thiệt hại thực tế

Trong chế độ bảo hiểm miễn thường có khấu trừ, thiệt hại thực tế phải lớn hơn mức miễn thường quy định mới được bồi thường nhưng STBT sẽ bị khấu trừ theo mức miễn thường này.

STBT = Giá trị thiệt hại thực tế – Mức miễn thường

Chế độ bảo hiểm theo tỷ lệ

Có hai loại tỷ lệ được áp dụng: Tỷ lệ Số tiền bảo hiểm/Giá trị bảo hiểm (STBH/GTBH) và tỷ lệ Số phí đã nộp/Số phí lẽ ra phải nộp.

Tỷ lệ STBH/GTBH được áp dụng trong các trường hợp bảo hiểm dưới giá trị:

Còn trong trường hợp có sự khai báo không chính xác rủi ro, bên bảo hiểm thường áp dụng tỷ lệ “Số phí bảo hiểm đã nộp/Số phí bảo hiểm lẽ ra phải nộp” để thanh toán nếu chấp nhận bồi thường:

Chế độ bảo hiểm theo rủi ro đầu tiên:

Theo chế độ bồi thường này, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả STBT theo một giới hạn đã thỏa thuận. Các tổn thất của người được bảo hiểm nằm trong giới hạn này được gọi là tổn thất thuộc rủi ro đầu tiên hoặc tổn thất đầu tiên. Còn tổn thất vượt quá giới hạn thỏa thuận này có thể sẽ được bảo hiểm bằng một đơn bảo hiểm Vượt quá. Chế độ bồi thường này thường được áp dụng trong bảo hiểm trộm cắp. Người ta lý luận rằng, ít khi toàn bộ tài sản bị mất trộm, do vậy chủ tài sản thường chỉ muốn bảo hiểm cho phần tổn thất có thể nhất, và đó được gọi là tổn thất đầu tiên.

b. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự

Bảo hiểm trách nhiệm dân sự (BHTNDS) có đối tượng được bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba theo luật định. Ví dụ: BHTNDS của chủ xe cơ giới, BHTNDS của chủ lao động, Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm, Bảo hiểm trách nhiệm công cộng…

Theo luật dân sự, trách nhiệm dân sự của một chủ thể (như chủ tài sản, chủ doanh nghiệp…) được hiểu là trách nhiệm phải bồi thường các thiệt hại về tài sản, về con người… gây ra cho người khác do lỗi của người chủ đó. Trách nhiệm dân sự có thể là trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách

nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Thông thường các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp sự bảo đảm cho các trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.

Vì đối tượng được bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát sinh của người được bảo hiểm đối với người bị thiệt hại (một người thứ ba khác) nên trong loại bảo hiểm này người được bảo hiểm là người có trách nhiệm dân sự cần được bảo đảm thường chính là người tham gia bảo hiểm. Còn người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm lại là những người thứ ba khác. Người thứ ba trong BHTNDS là những người có tính mạng, tài sản bị thiệt hại trong sự cố bảo hiểm và được quyền nhận bồi thường từ doanh nghiệp bảo hiểm với tư cách là người thụ hưởng. Người thứ ba có quan hệ về mặt trách nhiệm dân sự với người được bảo hiểm nhưng chỉ có mối quan hệ gián tiếp với doanh nghiệp bảo hiểm.

BHTNDS và BHTS đều được xếp vào loại bảo hiểm thiệt hại, là loại bảo hiểm bảo đảm cho các thiệt hại phát sinh. Do vậy, BHTNDS cũng áp dụng nguyên tắc bồi thường khi giải quyết bồi thường bảo hiểm.

c. Bảo hiểm con người

Bảo hiểm con người (BHCN) có đối tượng được bảo hiểm là tuổi thọ, tính mạng, tình trạng sức khỏe con người hoặc các sự kiện liên quan tới cuộc sống và có ảnh hưởng tới cuộc sống con người.

Nếu như trong bảo hiểm thiệt hại, việc thanh toán bồi thường bảo hiểm được dựa vào nguyên tắc bồi thường thì trong BHCN, nguyên tắc chi phối việc giải quyết thanh toán tiền bảo hiểm là “nguyên tắc khoán”. Khi có sự kiện được bảo hiểm xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thực hiện chi trả một khoản tiền dựa vào STBH đã

được thỏa thuận lựa chọn khi ký kết hợp đồng bảo hiểm chứ không dựa vào thiệt hại thực tế. Việc thanh toán chi trả tiền bảo hiểm trong BHCN chỉ mang tính trợ giúp về tài chính cho người được bảo hiểm và thân nhân (bảo hiểm con người phi nhân thọ) hoặc “hoàn lại” khoản tiền tích luỹ được của người được bảo hiểm (bảo hiểm nhân thọ) khi xảy ra các sự kiện được bảo hiểm. Điều này đơn giản là vì tính mạng và tình trạng sức khỏe của con người là vô giá nên không thể xác định được bằng một khoản tiền nào đấy. STBH trong các HĐBH con người hoàn toàn không phải là sự biểu hiện giá trị của bản thân người được bảo hiểm mà về cơ bản chỉ có ý nghĩa là một số tiền mà người tham gia bảo hiểm “khoán” cho doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chi trả khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Trong các HĐBH con người, do vậy cũng không tồn tại điều khoản giá trị bảo hiểm. Thuật ngữ “chi trả bảo hiểm” hoặc “thanh toán bảo hiểm” được sử dụng để thay thế cho “bồi thường bảo hiểm” trong bảo hiểm thiệt hại. Số tiền này do các bên tham gia hợp đồng thỏa thuận, tùy theo khả năng tài chính cũng như nhu cầu của người tham gia bảo hiểm.

Ở các nước kinh tế phát triển như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức và Nhật, dịch vụ BHCN rất phát triển. Khi người dân tham gia các dịch vụ bảo hiểm này, họ thường lập nên một kế hoạch tài chính trong gia đình mình để xác định số tiền bảo hiểm cần chọn lựa. Bằng việc sử dụng một hệ thống máy tính cá nhân và các thiết bị điện tử rộng khắp, họ có thể đánh giá chính xác nhu cầu về lượng tiền trong tương lai. Bao gồm cả việc đánh giá trạng thái biến động của lạm phát, số con, tình hình tăng trưởng… vì thế STBH trong BHCN, nhất là trong BHNT được họ lựa chọn rất phù hợp. Phần lớn STBH khi lựa chọn, đều dựa vào một số nhu cầu tài chính trong tương lai đã được đánh giá cụ thể. Các nhu cầu này thường bao gồm:

  • Nhu cầu bù đắp chi phí lúc bị chết;
  • Nhu cầu tạo lập quỹ đào tạo, giáo dục con cái;
  • Nhu cầu chi dùng hàng ngày, nếu không may người trụ cột trong gia đình bị chết, mà những người sống phụ thuộc lại chủ yếu nhờ cậy vào tiền lương của anh ta;
  • Nhu cầu chi trả những khoản nợ nần còn tồn đọng;
  • Nhu cầu chi phí bảo dưỡng tài sản…

Căn cứ vào tổng các nhu cầu nêu trên, người tham gia bảo hiểm lựa chọn STBH để mua. Số tiền này chính là mức chênh lệch giữa tổng giá trị các nhu cầu trong tương lai để hoàn thiện kế hoạch tài chính so với tổng giá trị tài sản hiện có để đáp ứng nhu cầu.

Kế hoạch trên được lập với giả định rằng, người tham gia bảo hiểm bị chết, sau cái chết, tổng giá trị các nhu cầu trong tương lai cần phải được đáp ứng bằng cách lựa chọn một STBH thích hợp để mua. Nhưng đó mới chỉ là một nửa của kế hoạch tài chính được lập, còn nửa kia họ phải tính đến mức phí bảo hiểm phải nộp và phương thức nộp phí (nộp một lần hay nhiều lần…). Phần này hoàn toàn phải dựa vào mức thu nhập hiện tại để cân đối và có tính đến mức độ ổn định nơi làm việc, khả năng tăng lương… Nếu mức thu nhập thấp, khả năng nộp phí bảo hiểm bị hạn chế, thì STBH sẽ phải được điều chỉnh giảm đi và ngược lại. Điều đó có nghĩa là STBH mà người tham gia bảo hiểm sẽ được công ty bảo hiểm thanh toán luôn tỷ lệ thuận với số phí bảo hiểm phải nộp. Phần lý giải này sẽ làm rõ thêm số tiền mà người bảo hiểm chi trả thực chất là một số tiền đã được “khoán” tương ứng với một mức phí phải nộp và phương thức nộp phí. Tất cả đều được thể hiện rõ trong bản hợp đồng.

Khác với các BHTS, trong BHCN mỗi đối tượng bảo hiểm có thể đồng thời được bảo hiểm bằng nhiều hợp đồng với một hoặc nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau. Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, việc trả tiền bảo hiểm của từng hợp đồng độc lập nhau. Chẳng hạn, ngày 10/5/2007 anh A ký kết HĐBH sinh mạng cá nhân với doanh nghiệp bảo hiểm X có STBH: 10 triệu đồng, và ký kết với doanh nghiệp bảo hiểm Y một HĐBH trợ cấp nằm viện phẫu thuật có STBH là 5 triệu đồng. Ngày 22/9/2007, trong một vụ tai nạn, anh A bị thương nặng phải vào viện phẫu thuật nhưng sau đó bị tử vong. Trong trường hợp này, người thừa kế hợp pháp của anh A sẽ nhận được khoản tiền cao nhất bằng tổng STBH từ hai hợp đồng: 10 triệu đồng + 5 triệu đồng = 15 triệu đồng.

Trong BHCN, không có sự thế quyền hợp pháp của người bảo hiểm. Điều đó có nghĩa là người bảo hiểm sau khi đã thanh toán, chi trả STBH, không được phép thế quyền người tham gia bảo hiểm hay người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để khiếu nại người thứ ba truy đòi số tiền bồi thường tương ứng. Nói cách khác, một người có thể đồng thời nhận được khoản thanh toán chi trả của công ty bảo hiểm và những khoản thanh toán bồi thường của người thứ 3 gây ra tai nạn, thiệt hại.

Mặc dù vậy, thực tế hiện nay, phạm vi bảo hiểm của một số nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ bảo đảm cho cả các chi phí y tế thực tế phát sinh. Do vậy, bên cạnh nguyên tắc khoán, các doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng kết hợp nguyên tắc bồi thường để giải quyết chi trả cho các khoản thiệt hại chi phí y tế khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.

5. Vai trò kinh tế và xã hội của bảo hiểm

5.1. Vai trò kinh tế

Bảo hiểm nói chung và từng loại hình bảo hiểm nói riêng đều mang lại những lợi ích kinh tế – xã hội thiết thực. Xét về mặt kinh tế, bảo hiểm có những vai trò rất to lớn sau đây:

– Góp phần ổn định tài chính và đảm bảo cho các khoản đầu tư

Từ khi các loại hình bảo hiểm ra đời cho đến nay đã chứng minh bảo hiểm góp phần rất to lớn trong việc ổn định tài chính cho các cá nhân và các tổ chức tham gia bảo hiểm. Có thể là ổn định về thu nhập nếu tham gia BHXH hay BHTN. Cũng có thể là ổn định về tài chính nếu tham gia BHYT hay BHTN. Bởi lẽ, khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm, nếu bị tổn thất, các cơ quan hay DNBH sẽ trợ cấp hoặc bồi thường kịp thời để người tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định cuộc sống và sản xuất,

làm cho sản xuất kinh doanh phát triển bình thường. Vai trò này đáp ứng được mục tiêu kinh tế của người tham gia nên đối tượng tham gia bảo hiểm ngày càng đông đảo. Trong các nền kinh tế hiện đại, bảo hiểm đã trực tiếp đảm bảo cho các khoản đầu tư. Nhà kinh tế học người Pháp Jerome Yeatman đã viết: “Không phải các kiến trúc sư mà là các nhà bảo hiểm đã xây nên New York, chính là vì không một nhà đầu tư nào dám mạo hiểm hàng tỷ đô la cần thiết để xây dựng những toà nhà chọc trời ở Manhattan mà lại không có đảm bảo được bồi thường nếu hỏa hoạn hoặc sai phạm về xây dựng xảy ra. Chỉ có các nhà bảo hiểm mới dám đảm bảo điều đó nhờ cơ chế bảo hiểm”. Điều này đúng với hầu hết các loại đầu tư, như: đầu tư xây dựng các giàn khoan dầu khí, đầu tư thiết kế và sản xuất các loại vệ tinh; đầu tư xây dựng siêu thị… Chủ đầu tư không thể mạo hiểm ngồi nhìn số tiền đầu tư của mình “tan thành mây khói” một khi không có bảo hiểm. Hầu hết các dự án đầu tư hiện nay đã đòi hỏi phải có bảo hiểm. Không có sự đảm bảo của bảo hiểm thì các chủ đầu tư, mà nhất là các ngân hàng liên quan sẽ không dám mạo hiểm đầu tư vốn cho dự án. Bởi vậy, bảo hiểm là một hoạt động kích thích đầu tư.

– Bảo hiểm là một trong những kênh huy động vốn rất hữu hiệu để đầu tư phát triển kinh tế – xã hội

Các cơ quan và DNBH thu phí bảo hiểm trước khi rủi ro và sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm. Điều đó cho phép họ có một số tiền rất lớn và cần phải quản lý chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, giữa thời điểm xảy ra rủi ro do tổn thất và thời điểm chi trả hoặc bồi thường luôn có một khoảng cách. khoảng thời gian này có thể kéo dài nhiều năm, nhất là trong BHTN và BHXH. Bởi vậy, số phí thu được phải dựa vào dự trữ, dự phòng và phải đem đầu tư để thu lãi. Thêm vào đó là các loại hình BHTN và BHXH lại ngày phát triển nhanh chóng và số phí được tồn tích lại ngày càng lớn. Điều đó càng khẳng định thêm vai trò huy động vốn để đầu tư của toàn ngành bảo hiểm là vô cùng quan trọng đối với các nền kinh tế. Theo số liệu thống kê năm 2005, số tiền do các DNBH thương mại đang quản lý và đầu tư là rất lớn, ở Mỹ là 2.500 tỷ đô la, ở Anh là 1119 tỷ bảng Anh còn ở Pháp là 630 tỷ Euro… Ở Anh, các DNBH đầu tư chủ yếu vào cổ phiếu nhờ quỹ hưu trí, còn ở Mỹ và Pháp danh mục đầu tư đa dạng hơn và cũng chủ yếu vào quỹ dự phòng từ BHTN và BHXH.

– Bảo hiểm góp phần ổn định và tăng thu cho ngân sách đồng thời thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước

Với các loại quỹ bảo hiểm ngày càng tăng do người tham gia đóng góp, các cơ quan, DNBH sẽ trợ cấp hoặc bồi thường kịp thời cho họ để ổn định đời sống và sản xuất, nếu như đối tượng bảo hiểm gặp phải rủi ro hay sự kiện bảo hiểm. Vì vậy, ngân sách Nhà nước không phải chi tiền để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi gặp rủi ro, (trừ những trường hợp tổn thất mang tính xã hội rộng lớn). Mặt khác, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực BHTM còn có trách nhiệm đóng góp vào ngân sách thông qua các loại thuế mà các DNBH phải nộp. Và cũng trong hoạt động này, mối quan hệ quốc tế giữa các DNBH ngày càng được mở rộng thông qua tái bảo hiểm hoặc đồng bảo hiểm để phân tán rủi ro. Điều đó cho thấy, vai trò ổn định và tăng thu cho ngân sách, đồng thời phát triển được các mối quan hệ quốc tế của hoạt động bảo hiểm là rất đáng kể trong điều kiện thế giới ngày nay.

5.2. Vai trò xã hội

Bên cạnh vai trò về kinh tế, vai trò xã hội của bảo hiểm cũng không hề thu kém. Điều này thể hiện ở chỗ:

– Bảo hiểm góp phần ngăn ngừa, đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống của con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn.

Trong quá trình tham gia bảo hiểm, các cơ quan, DNBH sẽ cùng với người tham gia bảo hiểm phối hợp để thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất thông qua một loạt các hoạt động như:

  • Tuyên truyền, hướng dẫn các biện pháp phòng tránh tai nạn, vệ sinh, an toàn lao động;
  • Xây dựng thêm các biển báo và các con đường lánh nạn để giảm bớt tai nạn giao thông;
  • Tư vấn và hỗ trợ tài chính để xây dựng và thực hiện các phương án phòng cháy, chữa cháy;
  • Tiêm chủng và chăm sóc y tế cộng đồng…

Tất cả những hoạt động nói trên của bảo hiểm đều nhằm mục đích góp phần ổn định cuộc sống, sản xuất và từ đó góp phần đảm bảo ASXH.

– Các loại hình bảo hiểm phát triển đã tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, đồng thời còn tạo nên một nếp sống tiết kiệm trên phạm vi toàn xã hội

Tiết kiệm trong bảo hiểm thường là tiết kiệm một cách có kế hoạch từ nội bộ mỗi gia đình, mỗi cơ quan, doanh nghiệp. Với những khoản tiền rất nhỏ, các cá nhân, các hộ gia đình vẫn có thể tiết kiệm được thông qua loại hình Hay trong BHXH, thì

tiết kiệm hôm nay là để bảo đảm cuộc sống cho ngày mai khi người lao động về hưu… Có thể nói, vai trò xã hội của bảo hiểm ở đây đã góp phần làm giảm tình trạng thất nghiệp cho người lao động và tạo dựng một nếp sống đẹp trên phạm vi xã hội.

– Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế – xã hội

Thật vậy, chỉ với một mức phí bảo hiểm rất khiêm tốn mà các cơ quan, các DNBH thu được, họ vẫn có thể giúp đỡ cho các cá nhân, các gia đình, các cơ quan doanh nghiệp khắc phục được hậu quả rủi ro, cho dù đó là những rủi ro khôn lường trong cuộc sống và sản xuất. Đó cũng chính là chỗ dựa để họ yên tâm hơn, tin tưởng hơn vào cuộc sống tương lai. Chính vì thế, ông Wisston Clurcholl – một chính khách đã nói: “Nếu có thể, tôi sẽ viết từ “bảo hiểm” trong mỗi nhà và trên trán mỗi người. Càng ngày tôi càng tin chắc rằng, với một giá khiêm tốn, bảo hiểm có thể giải phóng các gia đình ra khỏi thảm họa không lường trước được”.

Tóm lược

– Bảo hiểm là một công cụ quản trị rủi ro hiệu quả. Hiện nay trên thế giới có 4 loại hình bảo hiểm, đó là: Bảo hiểm thương mại (BHTM); Bảo hiểm xã hội (BHXH); Bảo hiểm y tế (BHYT) và Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Mỗi loại hình ra đời trong những hoàn cảnh, thời gian và điều kiện khác nhau. Bảo hiểm có quan hệ chặt chẽ và biện chứng với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

– BHTM là hoạt động kinh doanh bảo hiểm nên có các nguyên tắc hoạt động riêng và có nhiều loại BHTM. Hiện nay phổ biến là phân loại BHTM thành bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, và bảo hiểm con người. Các loại BHTM có đối tượng bảo hiểm, nguyên tắc tham gia bảo hiểm và nguyên tắc bồi thường không giống

– Bảo hiểm có vai trò kinh tế và xã hội to lớn, góp phần mang lại những lợi ích kinh tế – xã hội thiết thực cho cá nhân, cho tổ chức, cho các doanh nghiệp và cho toàn xã hội.

(Nguồn: neu.topica.vn)

5/5 - (1 bình chọn)

Có thể bạn quan tâm

123123

Lytuong.net – Contact: admin@lytuong.net