Trang chủ Mỹ học Cảm xúc thẩm mỹ là gì?

Cảm xúc thẩm mỹ là gì?

by Ngo Thinh
Published: Last Updated on 1,4K views

Cảm xúc của thẩm mỹ là gì?

Cảm xúc thẩm mỹ là khả năng rung cảm của con người trước những ấn tượng thẩm mỹ được nhận thức, là sự rung động của tâm hồn con người trải qua quá trình thụ cảm cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài, trong cuộc sống.

Trong cuộc sống của con con người ta thường có những thích thú, khoái cảm:

  • Khoái cảm uống rượu ngon, nhìn gái đẹp…
  • Khoái cảm đọc thơ, xem tranh, nghe hát…

Cả 2 thích thú trên đều là khoái cảm. Nhưng bản chất của 2 loại khoái cảm đó là khác nhau. Loại khoái cảm do ăn uống ngon, thoả mãn nhục dục… là NHỤC CẢM. Loại khoái cảm do đọc thơ, xem tranh nghe nhạc… đưa lại là MỸ CẢM.

Nghiên cứu về mỹ học, tìm hiểu về nghệ thuật, rất cần phân biệt đâu là nhục cảm và đâu là mỹ cảm. Học giả người Anh ở thế kỷ XIX là Ruskin đã đánh đồng nhục cảm với mỹ cảm, ông nói: Từ trước tới giờ tôi chưa thấy một bức tượng nữ thần nào của Hy Lạp lại đẹp hơn cô gái bằng xương bằng thịt của Anh quốc.

Thực ra thì một bà lão nhăn nheo vẫn có thể là hình tượng nghệ thuật đẹp, gây thích thú. Ngược lại, một cô gái bằng xương bằng thịt ngoài đời, những cô gái thực mà ảnh được in trên bao bì quảng cáo vẫn có thể khiến ta không thấy thích thú, không thấy đẹp.

Mỹ cảm và nhục cảm, vì vậy là 2 trạng thái tâm lý khác nhau. Tuy là khác nhau nhưng trong khi phân tích mỹ cảm không nên hoàn toàn tách biệt mỹ cảm với nhục cảm, cho rằng mỹ cảm hoàn toàn giới hạn trong những giác quan cao cấp: thị giác, thính giác; nhục cảm do những giác quan cấp thấp đưa lại: khứu giác, vị giác, xúc giác; các cơ quan cảm giác như vị giác, khứu giác, xúc giác… không sinh ra mỹ cảm. Thực ra, giữa mỹ cảm và các giác quan có liên hệ mật thiết. Nhà phê bình nổi tiếng Berensen viết: muốn thưởng ngoạn đường nét của họa sĩ chúng ta phải vận dụng đến đường gân thớ thịt. Beaudelaire chủ trương phải dùng các giác quan để khởi động tình cảm và sự thích thú. Do đo, họ coi trọng cả khứu giác lẫn vị giác. Chính vì vậy, có người bị đui, điếc từ nhỏ vẫn mẫn nhuệ về mỹ cảm. Trong kinh nghiệm mỹ cảm, ta thường có sự mô phỏng lại những động tác và điệu bộ ta thấy được trong trí tưởng tượng, đồng thời phát sinh ra những cử chỉ hay những vận động thích ứng khiến cho tri giác sáng tỏ hơn, do đó mà có những biến đổi sinh lý. Trong khi hội tụ tinh thần, ta không ý thức được sự vận động của giác quan cũng như biến đổi sinh lý.

Đặc điểm của cảm xúc thẩm mỹ

a. Cảm xúc thẩm mỹ nẩy sinh do ta tiếp xúc trực tiếp với các sự vật và hiện tượng ở hình thức biểu hiện. Hình thức biểu hiện, hình tướng (form) là đối tượng của cảm xúc thẩm mỹ.

Con người có 3 phương thức nhận biết sự hiện hữu của tạo vật trong vũ trụ:

  • Trực giác (intruction)
  • Tri giác (perception)
  • Khái niệm (conception)

Trực giác là sự nhận thức chỉ biết đến hình tướng, không biết đến ý nghĩa. Tri giác là sự nhận thức từ hình tướng đến ý nghĩa. Khái niệm là sự nhận thúc chú trọng ý nghĩa, vượt ra ngoài hình tướng, là kết quả tổng kết kinh nghiệm. Trong thực tế, mỹ học cận đại chia nhận thức ra thành 2 giai đoạn: trực giác (intrution) & danh lí (logical) (gộp giai đoạn 2&3 làm một). Giai đọan 1, nhận thức trực giác là biết một cách riêng biệt, theo công thức: A là A. Giai đọan 2, nhận thức lí tính (logical) biết những tương quan sự vật, theo công thức A là B (Ví dụ: Dạ lan hương là một loài hoa; Đây là một cái bàn). Tri thức trực giác thì A chỉ là A, không có liên hệ gì khác. Bấy giờ, A là một ý tượng hay hình ảnh (image) độc lập chiếm trọn tâm hồn ta. Còn A là B thì tri giác A (A là một sự vật), đem sự vật A qui nạp sang B (B là khái niệm). Tên gọi cái khoa học mà chúng ta đang nghiên cứu vốn có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp là extedix (aisthésis), tiếng Anh là Aesthetics, tiếng Pháp là Esthétique có nghĩa là trực giác học. Chữ Aesthetics chỉ hoạt động tâm lý khi nhận thức sự vật ở giai đoạn đầu, gần giống với nghĩa intuitive tức là trực giác. Còn mỹ học, thì mỹ chỉ đặc tính của sự vật khách quan. Kinh nghiệm mỹ cảm mà ta có được là do trực giác được form, cho nên form là đối tượng trực giác (form thuộc về vật), còn trực giác là dùng tâm thức mà biết được vật (nó thuộc về ta). Cái mà tâm thức tiếp xúc với vật chỉ là trực giác, còn sự vậy biểu hiện trong ta chỉ là form (chứ không phải bản chất, nguyên nhân, ý nghĩa, công dụng, giá trị của sự vật – kết qủa của tri giác, khái niệm). Chẳng hạn, có 3 thái độ của con con người khi đứng trước cây mai:

  • Thái độ khoa học thì mai thuộc họ gì, đặc điểm, điều kiện sinh sản…
  • Thái độ thực dụng thì mai công dụng gì, bao nhiêu tiền…
  • Thái độ thẩm mỹ thì mai chỉ là hình tướng form với chân diện mục.

Như vậy, càng có nhiều kinh nghiệm, càng khó chú ý đến form, càng khó trực giác; và do đó, càng khó đi đến mỹ cảm. Đối với 2 thái độ (khoa học & thực dụng) cây mai có giá trị ngoại tại (extrinsic) (vì nó dựa vào sự liên hệ) Thái độ thứ 3 cây mai có giá trị nội tại (intrinsic) (vì không dựa vào cái gì khác).

Hình tướng (form) của sự vật không phải do tạo hóa sinh thành bất biến mà do trực giác của ta lĩnh hội được nó. Hình tướng (form) là sự phản chiếu nhân tính và sự rung động của người thưởng ngoạn. Mà nhân tính và sự rung động của người thưởng ngoạn là tùy thời, tùy nơi, tùy người. Do đó, form trực giác là thiên hình vạn trạng, vì hình tướng một phần do chính sự vật biểu hiện, một phần do phát xạ (projection) của nhân tính cùng rung động của nguời thưởng ngoạn. Vì vậy, form và trực giác như nhân với qủa. Triết lí của Nguyễn Du sau đây quả là chân lí:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui bao giờ

Không phải ngẫu nhiên mà trước cùng một cảnh mà người vui, người buồn.

b. Cảm xúc thẩm mỹ là thái độ tâm lý cực đoan, là trạng thái tập trung, hội tụ tinh thần cao độ. Khi cảm xúc thẩm mỹ đến, tất cả tinh thần tập trung vào đối tượng cho nên, về hình ảnh sự vật trở thành thế giới biệt lập. Còn tâm hồn ta hoàn toàn yên nghỉ trong sự vật. Như thế, đối với vật, ta đạt được diệu cảnh tâm mãn, ý túc. Ta và vật quyện vào nhau làm một, ta đắm chìm vào lòng sự vật. Khi đắm chìm vào lòng sự vật, ta là kẻ vô ý chí, vô thống khổ, vô thời gian… Đó là giây phút ta giải thoát, siêu thoát. Cảm xúc thẩm mỹ là một sự sự siêu thoát. Nhà khoa học khi say mê nghiên cứu cũng có những giây phút siêu thoát. Nhưng khoa học thì siêu thoát đến vô ngã (rất khách quan), nhà nghệ thuật siêu thoát đến hữu ngã (rất chủ quan). Khi hưởng thụ khoái cảm bình thường thì ta ý thức rõ là ta đang hưởng thụ. Còn trong mỹ cảm thì ý thức chúng ta chỉ có hình ảnh hay ý tượng sự vật biệt lập, ta không biết chúng ta đang thưởng ngoạn. Do đó, càng không ý thức được cảm giác đang khoan khoái do đối tượng gây nên. Nghĩa là, khoái cảm đi đôi với mỹ cảm trong khi thưởng ngoạn, nhưng ta không thể biết được lúc thưởng ngoạn, chỉ sau này mới biết.

Sai lầm của phái Freud là nhầm lẫn mỹ cảm và nhục cảm. Họ cho rằng nghệ thuật là sự hóa trang để thỏa mãn nhục dục (Oedipus). Sai lầm của mỹ học thực nghiệm Đức và Mỹ gần đây là đem nghệ thuật tạo hình vào bàn mổ xẻ, rồi trắc nghiệm xem loại nào, độ tuổi nào thích màu gì, âm điệu nào. Tác phẩm nghệ thuật đẹp là trong tính chỉnh thể hài hòa, toàn bích chứ không phải đẹp từng phương diện, bộ phận. Cũng chính với ý nghĩa ấy mà Xuân Diệu viết:

Ai đem phân tích một mùi hương.

Một bản cầm ca, tôi chỉ thương

Chỉ lặng truồi theo dòng cảm xúc

Như thuyền ngư phủ lạc trong sương

c. Cảm xúc thẩm mỹ bắt đầu ở chỗ trực giác được hình tướng sự vật không nhằm mục đích thực dụng. Khi cảm xúc thẩm mỹ đến là lúc ta đã vượt ra khỏi vòng vây hãm của thế giới thực dụng.

Mỹ cảm không bị tiêm nhiễm bởi thực dụng, nó vô sở vi nhi vi (không phải làm mà vẫn làm). Khoái cảm lại nhắm vào mục đích thực dụng. Ví dụ như uống rượu thấy khoái. Tuy vậy, có khi uống rượu cũng có thể liên quan trực tiếp đến cảm xúc thẩm mỹ. Đó là lúc rượu kích thích thi hứng. Bác Hồ từng viết:

Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ

Người ngắn trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

Cầm, kì, thi, tửu không đơn giản chỉ là sự khái quát về trò tiêu khiển của các nhà thơ Phương Đông xưa. Sở dĩ, thi đi liền với tửu, là bởi vì, các nhà thơ xưa thường uống rượu để quên đi thực tại (hương vị rượu lúc đó không nhằm đáp ứng khoái cảm vị giác), để tìm đến với thế giới khác, để siêu thoát. Họ dùng rượu để quên thực tại đời sống (tạo khoảng cách tâm lí). Rượu lúc đó làm phát sinh kinh nghiệm mỹ cảm. Khoái cảm được nhìn người đẹp cũng có thể là mỹ cảm, cũng có thể là không phải. Nếu khoái cảm muốn chiếm người đẹp làm người phối ngẫu thì khi nói: nàng đẹp thì đẹp đó chỉ với nghĩa là điều kiện thỏa mãn nhục dục. Nếu ngắm người đẹp mà vượt ra ngoài bản năng xung động, nhìn họ với hình tướng, đường nét, không có dục niệm, nghĩa là như ngắm một pho tượng, một bức tranh thì đó là thái độ mỹ cảm. Thái độ mỹ cảm là thái độ không đi đôi với ý chí nên không mang tính chất chiếm hữu.

Cảm xúc thẩm mỹ có khả năng phản ánh được những giá trị không mang tính thực dụng. Đó là giá trị tinh thần, tình cảm. Nó vượt ra khỏi khuôn khổ của sự vui sướng chỉ do thỏa mãn những nhu cầu thuần túy bản năng sinh lý hay thực dụng. Cảm xúc thẩm mỹ là cảm xúc vô tư, không vụ lợi. Do đó, cảm xúc thẩm mỹ đã trở thành biểu tượng rất quan trọng của sự phát triển tính người trong con người với tư cách là thuộc tính giống loài ở nhân cách con người. C.Mác viết: Các giác quan của con người xã hội, khác giác quan của con người phi xã hội. Chỉ nhờ có một sự phong phú được triển khai về mặt vật thể của thực thể con người, con người mới được phát triển và phần nào mới bắt đầu nảy sinh được sự phong phú của cảm năng chủ quan của con người: cái tai biết nghe nhạc, con mắt cảm nhận được vẻ đẹp của hình thức, nói tóm lại là những giác quan có khả năng dẫn tới những khoái cảm của con người và khẳng định mình như một sức mạnh bản chất con người. Biêlinski cũng khẳng định: Cảm xúc về cái kiều diễm là một điều kiện làm nên phẩm giá con người.

d. Đặc điểm tâm lý của cảm xúc thẩm mỹ là khoảng cách tâm lí, hay cự li tâm lí. Mỹ cảm bắt đầu ở chỗ trực giác được hình tướng không nhắm vào mục đích thực dụng. Muốn có được mỹ cảm, ta phải vượt ra khỏi vòng vây hãm của thế giới thực dụng, hay đẩy lùi thế giới ấy ra xa một khoảng cách. Bullough, nhà tâm lý học Anh quốc đã nêu thành nguyên tắc, nguyên tắc khoảng cách tâm lý (psychical distance).

Khoảng cách có 2 phương diện:

  • Khoảng cách tiêu cực: khoảng cách sẽ tạo ra sự thoát ly khỏi mục đích và nhu cầu thực tế.
  • Khoảng cách tích cực: khoảng cách sẽ tạo ra sự chú trọng đến việc thưởng ngoạn hình tướng.

Mối tương quan do tác dụng giữa vật và ta vì khoảng cách đã biến thành ra sự thưởng ngoạn. Do đó, nói về ta thì khoảng cách là siêu thoát. Nói về vật thì khoảng cách là cô lập. Xưa, các bậc thi nhân là kẻ xuất trần, thoát tục (Thoát tận nhân gian yên hỏa khí- vượt khỏi chất khói lửa của nhân gian). Họ đã đẩy lùi sự vật ra thành một khoảng cách để nhìn. Trong con mắt của nhà nghệ thuật sự vật chỉ là màu sắc, đường nét, âm thanh- những cái tổ hợp thành hình tướng. (Con đường là con đường, không phải con đường là nơi dẫn đến ngân hàng hay thương xá). Họ gạt cái thực dụng ra ngoài. Họ đem màu sắc, âm thanh, đường nét tổ hợp, điều chỉnh sao cho thế giới đẹp hơn, thỏa mãn với ý nguyện của họ. Họ biến đổi giá trị của sự vật. Một cái ghế, đĩa trái cây tầm thường qua tay Van Gogh đã trở thành những bức tranh quý giá. Nhà khoa học và nhà nghệ thuật đều có sự siêu thoát ra khỏi cái thực dụng. Nhưng nhà  khoa học siêu thoát đến vô ngã -impersonal (rất khách quan). Nhà nghệ thuật phải đạt đến hữu ngã – Personal (rất chủ quan). Khái niệm khoảng cách tâm lí ở đây được hiểu:

  • Khoảng cách là sự cách biệt giữa ta và vật (trên quan điểm thực dụng)
  • Khoảng cách là sự hòa nhập giữa ta và vật (trên quan điểm mỹ cảm)

Nghệ thuật không sao thoát ly được tình cảm. Mà tình cảm là nhân cách, là hữu ngã. Trong kinh nghiệm mỹ cảm, tình cảm đổ dồn hết vào hình tướng sự vật. Nghệ thuật phải biểu hiện tình cảm (nghệ sĩ) và kích động tình cảm (người thưởng thức). Nghệ thuật vượt ra ngoài mục đích thực dụng, nhưng không vượt ra khỏi kinh nghiệm mỹ cảm. Sáng tác hay thưởng ngoạn đều phải thấu triệt lấy những kinh nghiệm đã có để hiểu sự vật trước mắt. Sự vật nào không có kinh nghiệm thì không sao hiểu được. Trang Tử nói: Người mù biết dựa vào đâu mà hiểu cái tươi sáng, kẻ điếc biết dựa vào đâu để nghe âm thanh của tiếng chiêng, tiếng trống. Há có phải chỉ hình hài mới có đui điếc đâu, mà trong trí thức cũng vậy. Cũng như người không chút kinh nghiệm luyến ái mà đọc tiểu thuyết ái tình. Cho nên, nó là tài liệu cũ được tổng hợp mới. Vì tài liệu cũ nên người thưởng ngoạn mới có thể lĩnh hội được, tổng hợp mới là sự sáng tạo của nghệ sĩ (Nghệ thuật điêu khắc Hy lạp dùng thường nhân làm con người mẫu tạo các tượng thần. Đăng tơ (Dante) tả địa ngục dùng thế giới con người làm lam bản.)

Trong khoảng cách tâm lí có vấn đề mâu thuẫn khoảng cách (the Antinomy of distance). Nếu khoảng cách xa thì không lĩnh hội được đối tượng thẩm mỹ. Nếu khoảng cách gần thì bị động cơ thực dụng áp đảo. Do đó, khoảng cách lý tưởng là gần mà xa, xa mà gần.

Người thưởng ngoạn thường có hai thái độ cực đoan:

  • Bàng quan (contemplator).
  • Cộng hưởng (participant).

Người bàng quan thì đứng ngoài cục diện sự vật; người cộng hưởng thì xâm nhập vào cục diện sự vật. Người cộng hưởng thì dễ đánh mất khoảng cách thích ứng. Giả dụ như, kịch Othello miêu tả tính cả ghen của ông chồng. Trong khán giả lại có ông chồng đang nghi ngờ mình bị vợ cắm sừng rồi đau khổ. Xem Othello, tính cả ghen của anh ta càng được thổi bùng lên. Do đó, anh ta không phải là người xem kịch mà là người đang tự đau thương cho số phận của mình. Anh ta mượn rượu kẻ khác để giải sầu mình. Hoặc giả, một khán giả Trung Quốc khi xen vở kịch Tào Tháo, đến đoạn Tào Tháo biểu hiện tính gian hùng trong triều đình, vị khán giả nọ đã phẫn tức, cầm dao nhảy lên sân khấu giết chết diễn viên Tào Tháo. Hoặc nữa, ở một nước phương Tây nọ, trên sân khấu, một diễn viên đang đóng vai nhà phát minh cùng khổ. Khi phát minh sắp hoàn thành thì hết than, lửa tắt, mà nhà phát minh không tiền. Lo sợ bao công sức đổ xuống sông, một khán giả đã ném tiền lên sân khấu la lên: nhanh lên, hãy mang tiền mà đi mua than ngay.

Người sáng tác là người không thể chỉ say sưa với tình cảm của mình mà phải khách quan hóa tình cảm ấy, biến thành người khác để thưởng ngoạn tình cảm chính mình. Nhà nghệ thuật sở dĩ là nhà nghệ thuật, không phải là vì anh ta chỉ là kẻ nhạy cảm mà còn là người biết đem tình cảm của mình biểu hiện thành tác phẩm. Người thường có thừa tình cảm mà không làm ra tác phẩm được vì họ không thể tạo ra một khoảng cách- một địa vị khách quan để quan chiếu lại nếp sống của mình.

Thuyết Freud để xướng thuyết văn nghệ là sự thăng hoa của dục vọng. Sai lầm của Freud là đã rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và bản năng. Nếu nghệ thuật miêu tả tính dục, người xem nhắm vào thỏa mãn tính dục của mình, chẳng khác nào đói được ăn, khát được uống… Đó là hoạt động thực dụng chứ không phải mỹ cảm. Dù nghệ thuật có nói đến tính dục, thực dụng nhưng người thưởng ngoạn không thể bị tính dục điều khiển. Có những sự việc liên quan đến vấn đề thực dụng, nhưng qua tay nghệ sĩ thì tài liệu thực trở thành sự kiện nghệ thuật. Do nghệ sĩ đã tạo được khoảng cách. Thi nhân Anh quốc là Keats đã mô tả một đôi tình nhân gian dâm trong đêm -một cuộc tình lôi thôi nóng bỏng. Trong đó có những đoạn miêu tả cái đẹp của cơ thể, nhục thể nhưng Keats đã khéo lồng vào bối cảnh âm u, đem một việc thế nhân đặt vào vòng siêu nhân, hay là nghệ thuật hóa một sự kiện phàm tục, tạo ra một bức tranh thanh nhã, nghiêm trang. Vương Thực Phủ trong Tây Sương ký miêu tả đêm sơ ngộ giữa Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh:

Yêu nhau phượng bế loan bồng đã sao!

Then mây mở cửa động đào…

Đào tiên hớn hở đón chào tin xuân

Những là tê tái tần vần

Lả dần vóc liễu, mờ dần lòng hoa…

Những câu thơ này nói đến sự giao hợp của trai gái nhưng tác giả đã khéo vận dụng hình ảnh, ngôn từ u mỹ  và êm dịu đẹp đẽ. Cái đẹp đã chiếm trọn tình cảm người đọc. (Có thể có người phát sinh dục niệm, nhưng đó là do tinh thần thưởng thức bạc nhược, do người đọc).

Nguyễn Du tả cái đẹp của thân thể Kiều lúc tắm: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà.

Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.

Còn đây là cảm xúc thẩm mỹ của Bích Khê trước một bức Tranh lõa thể:

Dáng tầm xuân uốn trong tranh tố nữ

Ôi tiên nương nàng lại ngự nơi đây

Nàng ở đâu? Xiêm áo bỏ đâu đây

Đến triển lãm cả thân hình kiều diễm

Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm

Nàng là hương hay nhan sắc nên hương

Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường

Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc

Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc

Vài chút trăng say đọng ở làn môi

Trong sáng tác, phải tạo khoảng cách về không gian và về cả thời gian. Sự kiện càng xa xưa càng đưa đến mỹ cảm, giống kẻ lữ hành khi đến địa phương xa lạ. Những tác phẩm nghệ thuật tả sự kiện hiện thời, do khoảng cách thời gian quá gần nên bị coi là tả thực, đến lúc nào đó khi cuộc sống thực qua đi, lúc đó, tác phẩm ấy trở thành lãng mạn. Không phải ngẫu nhiên mà ngạn ngữ có câu: Có tích mới dịch nên tuồng. Nghệ thuật sân khấu tuồng, chèo, cải lương thường muốn hay phải dựng trên cơ sở chuyện xưa, tích cũ.

Ở nghệ thuật sân khấu, do khoảng cách gần nên dễ làm người xem rời bỏ mỹ cảm quay về với hiện thực. Do đó, sân khấu thường ngoài việc tích cũ, còn vẽ mày, vẽ mặt; đi hia, đội mão; lời ca, sân khấu cao trên tầm mắt người xem… Ở nghệ thuật điêu khắc, cũng do khoảng cách gần nên con người ta cũng tìm phương pháp tạo khoảng cách: tượng to hoặc nhỏ hơn so với sự thực, đặt trên đài cao. Ở nghệ thuật hội họa, hội họa chỉ biểu hiện trên mặt phẳng nên khoảng cách quá lớn. Phương Tây và Trung Quốc cổ đại trong tranh không áp dụng luật viễn cận, sắc độ, đối với hình thể chỉ nhằm đạt được thần cốt tinh diệu, chứ không phải đạt hình thể giống như thực. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đưa nghệ thuật ngày càng tiến gần đến thực tại. Nhưng trong lĩnh nghệ thuật điều đó chưa hẳn đã tốt. Chủ nghĩa tự nhiên bị phản đối vì gần với tự nhiên. Lý tưởng của phái Hậu ấn tượng là đưa nghệ thuật tạo hình tiến gần đến âm nhạc. Trong nghệ thuật hội họa và điêu khắc áp dụng luật viễn cận, sắc độ vốn là một sự tiến bộ của trong kỹ xảo, sự tiến bộ này cũng giúp nhiều cho nghệ thuật. Nhưng thà nghệ thuật thiếu kỹ xảo còn hơn kỹ xảo thiếu nghệ thuật. Họa sĩ Trung Quốc xưa từng đưa ra luật lệ:

Nước xa không sóng.

Núi xa không nhăn.

Cây xa không cành.

Người xa không mắt.

Nhưng họa sĩ tinh thông thì không chấp nệ vào luật ấy.

5/5 - (1 bình chọn)

Có thể bạn quan tâm

123123

Lytuong.net – Contact: [email protected]