1. Khái niệm lạm phát (Inflation)
Có nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ lạm phát, nhưng nói chung chưa có một sự thống nhất hoàn toàn. Để có một khái niệm chung về lạm phát, chúng ta cần nghiên cứu một số luận thuyết về lạm phát.
Trong luận thuyết “lạm phát lưu thông tiền tệ” của Milton Friedman, Milton Friedman cho rằng lạm phát là việc đưa quá nhiều tiền vào lưu thông làm cho giá cả tăng lên.
Theo Jean Bodin “lạm phát trong mọi lúc mọi nơi đều là hiện tượng của lưu thông tiền tệ. Lạm phát xuất hiện và chỉ có thể xuất hiện khi nào số lượng tiền tệ trong lưu thông tăng lên với nhịp độ nhanh hơn so với sản xuất”.
Luận thuyết lạm phát cầu dư thừa tổng quát của John Maynard Keynes. Theo John Maynard Keynes nguyên nhân cơ bản của lạm phát là sự biến động của quan hệ cung cầu hàng hóa. Khi mức cung đã đạt tột đỉnh vượt quá mức cẩu, làm cho sản xuất định đốn thì Nhà nước cần phải tăng thêm tiền vào lưu thông, để tăng các khoản chi cho Chính phủ, nghĩa là tăng cầu để đạt tới mức cán bằng với cung và vượt cung. Khi đó xuất hiện lạm phát và lạm phát ở đây có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển. Như vậy theo J M Keynes, trong điều kiện nền kinh tế có tài nguyên dư thừa, sức lao động dồi dào, có phương tiện lao động, nhưng thiếu vốn thì lạm phát là một công cụ để tăng trưởng kinh tế, chống suy thoái.
Luận thuyết “lạm phát chi phí”: theo quan điểm này cho rằng lạm phát nảy sinh do mức tăng các chi phí sản xuất kinh doanh nhanh hơn mức tăng năng suất lao động. Mức tăng chi phí này chủ yếu là do tăng: tiền lương, giá các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu đặc biệt từ sau năm 1970 do giá dầu mỏ tăng cao, đã làm cho lạm phát tăng ở nhiều nước.
Luận thuyết “lạm phát cơ cấu” được phổ biến ở nhiều nước đang phát triển: lạm phát nảy sinh là do sự mất cân đối sâu sắc trong chính cơ cấu của nền kinh tế (mất cân đối giữa tích lũy và tiêu dùng. giữa công nghiệp và nông nghiệp.), chính vì sự mất cân đối này là một nhân tố cơ bản dẫn đến sự phát triển không có hiệu quả của nền kinh tế.
Theo quan điểm của Karl Marx “lạm phát là sự tràn ngập trong lưu thông một khối lượng tiền giấy quá thừa dẫn đến sự mất giá của tiền giấy, dẫn đến sự phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân có lợi cho giai cấp thống trị, làm thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân lao động”.
Lạm phát (Inflation) thường có những biểu hiện đó là:
– Giá của tất cả các loại hàng hóa kế cả hàng hóa từ liệu tiêu dùng, lần hàng hóa tư liệu sản xuất và giả cả hàng hóa sức lao động đều tăng.
– Giá vàng tăng.
– Giá ngoại tệ tăng.
– Giá cả của chứng khoán có giá biến động mạnh.
Thuật ngữ liên quan:
Khi mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống, trong một thời gian nhất định, ta gọi là giảm phát.
Giảm lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên nhưng chậm hơn trong thời kỳ này so với thời kỳ trước đó.
Thiểu phát là hiện tượng xảy ra khi tỉ lệ lạm phát thực tế thấp hơn tỉ lệ lạm phát kỳ vọng trước đó; điều này làm cho mức sản lượng thực tế thấp hơn mức sản lượng kỳ vọng.
Ví dụ lạm phát của Việt Nam năm 2011 là 18.12 % (GSO); trong khi lạm phát năm 2012 là 6.81%. Như vậy, lạm phát năm 2012 giảm so với mức lạm phát của năm 2011; hay ta gọi là có một sự giảm lạm phát của năm 2012 so với năm 2011, từ 18.12% xuống còn 6.81%.
2. Các loại lạm phát
Có nhiều căn cứ để phân loại lạm phát, các kinh tế gia thống nhất phân loại lạm phát theo các tiêu thức sau đây:
* Căn cứ vào tốc độ của lạm phát:
Nếu căn cứ vào tốc độ của lạm phát, chia lạm phát ra làm lạm phát thấp, lạm phát phi mã và lạm phát siêu tốc.
– Lạm phát thấp: Lạm phát thấp hay còn gọi là lạm phát vừa phải, là loại lạm phát xảy ra với mức tăng chậm của giá cả, được giới hạn ở mức độ một con số hàng năm, có nghĩa là chỉ số giá cả tăng từ 1% năm đến 9% năm.
– Lạm phát phi mã: Lạm phát phi mã là lạm phát xảy ra khi chỉ số giá cả hàng hóa biến động mạnh, tăng từ hai con số trở lên hàng năm, có nghĩa là chỉ số giá cả tăng từ 10% năm đến 99% năm.
– Lạm phát siêu tốc: Lạm phát siêu tốc hay còn gọi là siêu lạm phát, là lạm phát xảy ra khi chỉ số giá cả hàng hóa biến động rất mạnh, tăng từ ba con số trở lên hàng năm, có nghĩa là chỉ số giá cả tăng từ 100% năm trở lên.
Ví dụ như ở Đức, từ tháng 1 năm 1922 đến tháng 11 năm 1923 chỉ số giá cả tăng 10.000.000 lần, vào thời kỳ đó, một ngàn phiếu có giá trị 30 triệu DEM, sau 2 năm 30 triệu DEM không mua nổi một chiếc kẹo cao su, vì vậy trong một khoảng thời gian ngắn từ năm 1921 đến năm 1923 mà kho tiến của nước Đức tăng 7.000 triệu lẫn. Lạm phát siêu tốc gây nên tác hại rất lớn cho nền kinh tế – xã hội, có thể tóm tắt qua một số điểm chính như sau:
– Nền kinh tế bị phá hoại một cách trầm trọng, vì lạm phát gia tăng nên lĩnh vực lưu thông bành trưởng, trên cơ sở sản xuất không phát triển nên đẩy nền kinh tế thị trường đi theo hướng tiêu cực.
– Phá hoại các hoạt động của ngân hàng, như làm tê liệt mạng lưới thanh toán; giảm số dư tiền gửi huy động; giảm dư nợ tín dụng và các dịch vụ ngân hàng phục vụ cho khách hàng cũng bị ảnh hưởng rất xấu.
– Làm giảm thấp mức thu nhập thực tế của ngân sách Nhà nước nên không đảm bảo nhu cầu chi tiêu trong tài khóa.
– Bần cùng hóa đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân lao động, vì người lao động là người làm công ăn lương, trong khi tiến lương không tăng hoặc tăng không kịp so với tỷ lệ lạm phát.
* Căn cứ vào nguyên nhân gây ra lạm phát
Nếu căn cứ vào nguyên nhân gây ra lạm phát, chia lạm phát ra làm lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy.
– Lạm phát cầu kéo: Lạm phát cầu kéo là loại lạm phát xảy ra khi nhu cầu hàng hóa tăng quá cao vượt quá khả năng cung ứng hàng hóa của nền kinh tế.
Do nhu cầu hàng hóa tăng, cung ứng hàng hóa không tăng tương ứng, từ đó kéo giá cả hàng hóa tăng. Trong thực tế Chính phủ có thể kiểm soát loại lạm phát này ở mức độ nhất định, lợi dụng lạm phát cầu kéo nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát cầu kéo, thông thường do các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Thứ nhất: do bội chi ngân sách Nhà nước thường xuyên và kéo dài, ngân hàng trung ương phải phát hành tiến tạm ứng cho Chính phủ chi tiêu.
- Thứ hai: do việc kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông của ngân hàng trung ương không chặt chẽ, làm cho tiền trong lưu thông vượt quá khối lượng tiền cần thiết (bao gồm cả tiền mặt và tiền ghi số) chất lượng tín dụng yếu kém, các ngân hàng thương mại cho vay nhưng không thu hồi được vốn,…
- Thứ ba: do yếu tố tâm lý, như ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng về kinh tế, chính trị, quân sự, bão lụt, động đất lớn v.v.. làm cho tâm lý dân cư bị giao động, mọi người đều có xu hướng dự trữ hàng hóa cho tương lai, làm cho nhu cầu hàng hóa gia tăng nhanh chóng, giá cả hàng hóa sẽ bị kéo lên.
– Lạm phát chi phí đẩy: Lạm phát chi phí đẩy là loại lạm phát xảy ra khi chi phí đầu vào cho một đơn vị sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tăng, làm cho giá thành sản phẩm tăng nên đẩy giá cả hàng hóa tăng lên.
Chi phí nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, chi phí tiền lương, chi phi sản xuất khác đều tăng làm giá cả hàng hóa tăng lên. Khi mức giá cả càng cao, nhu cầu hàng hóa, dịch vụ của nền kinh tế sẽ càng giảm, hậu quả là làm cho sản lượng của nền kinh tế giảm, kéo theo tổng sản phẩm quốc dân giảm.
Lạm phát chi phí đẩy có ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế vì vậy Chính phủ nên có những kế hoạch để phòng tránh hoặc có biện pháp để khắc phục hậu quả.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát chi phí đẩy, thông thường do các nguyên nhân chủ yếu như:
- Thứ nhất: do trình độ quản lý kinh tế yếu kém, tổ chức lao động không hợp lý, các chi phí ngoài sản xuất tăng cao.
- Thứ hai: do tham nhũng cùng các vấn nạn xã hội khác.
- Thứ ba: do chi phí nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu tăng. Sự gia tăng này có thể vì sự khan hiếm trong nước hoặc giá thành nhập khẩu tăng cao.
- Thứ tư: do chi phí tiền lương công nhân tăng.
- Thứ năm: do thuế suất cao hoặc chính sách thuế không hợp lý. Thứ sáu: do trang thiết bị, công nghệ sản xuất lạc hậu làm giả thành sản xuất tăng lên.
Lưu ý: Trong những trường hợp nhất định, việc phân chia lạm phát cầu kéo hoặc lạm phát chi phí đẩy chỉ là tương đối; chẳng hạn khi chi phí tiền lương trong một đơn vị sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tăng lên sẽ đẩy giá thành sản phẩm tăng, đồng thời cũng làm tăng thu nhập người lao động và làm cho cấu hàng hóa tăng.
* Căn cứ vào tác động của lạm phát
Nếu căn cứ vào tác động của lạm phát, chia lạm phát ra làm ba loại là: làm phát cân bằng và có thể dự đoán; Lạm phát không cần bằng và có thể dự đoán; Lạm phát cân bằng và không thể dự đoán
– Lạm phát cân bằng và có thể dự đoán được: Lạm phát cân bằng và có thể dự đoán là loại lạm phát xảy ra khi giá cả tất cả các loại hàng hóa đều tăng cùng một tốc độ và có thể dự đoán trước được.
Lạm phát cân bằng và có thể dự đoán không ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, vì giá cả các loại hàng hóa tăng đều nhau nên lưu thông tiền tệ ít bị ảnh hưởng, sản xuất giữa các ngành tăng trưởng bình thường, ít gây ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế. Tỷ lệ lạm phát được dự đoán trước và trở thành tỷ lệ lạm phát trông đợi, người ta có thể chỉ số hóa vào các hành vi kinh tế, do vậy thu nhập quốc dân không bị phân phối lại.
– Lạm phát không cân bằng và có thể dự đoán: Lạm phát không cân bằng và có thể dự đoán là loại lạm phát xảy ra khi giá cả các loại hàng hóa tăng không đều, nhưng có thể dự đoán trước được.
Do giá cả các loại hàng hóa tăng không đều làm cho sản xuất bị mất cân đối. Lưu thông tiền tệ bị rối loạn, xuất hiện hiện tượng “chạy trốn” khỏi tiền tệ.
Các tác động trên làm ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển nền kinh tế.
– Lạm phát cân bằng và không thể dự đoán: Lạm phát cân bằng và không thể dự đoán là loại lạm phát xảy ra khi giá cả các loại hàng hóa tăng đều nhau nhưng bất ngờ và không thể dự đoán trước được.
Do tính chất bất ngờ, không dự đoán trước nên người ta không thể chỉ số hóa tỷ lệ làm phát vào các hành vi kinh tế được, làm thu nhập quốc dân bị phân phối lại.
Lạm phát không cân bằng và không thể dự đoán trước: Lạm phát không cân bằng và không thể dự đoán trước là loại lạm phát xảy ra khi giá cả các loại hàng hóa tăng không đầu nhau và bất ngờ, không dự đoán trước được.
Vì không thể dự đoán trước nên đã làm phân phối lại thu nhập quốc dân và của cải xã hội một cách sâu sắc. Lưu thông tiền tệ rồi loạn, sản xuất mất cân đối, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế.
Loại lạm phát này rất khó kiểm soát và có thể dẫn đến lạm phát phi mã và lạm phát siêu tốc.
Trong điều kiện hiện đại, khi mà nền kinh tế của một nước luôn được gắn liền với nền kinh tế thế giới thì biểu hiện của lạm phát được thể hiện qua các hiện tượng sau:
Sự mất giá của các loại chứng khoán có giả, song song với sự tăng giá cả các loại hàng hóa, giá trị các loại chứng khoán có giá bị sụt giảm nghiêm trọng. Vì việc mua công khố phiếu, mua tín phiếu và các giấy tờ có giá trị nói chung là để nhằm thu các khoản lợi khi đáo hạn, nhưng vì giá của đồng tiền sụt giảm nghiêm trọng nên người ta không thích tích lũy tiến theo hình thức mua công khố phiếu và tín phiếu nữa mà chuyển sang tích trữ vàng và ngoại tệ.
Sự giảm sức mua của đồng tiền so với ngoại tệ và vàng trong điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế. Vàng và ngoại tệ mạnh được sử dụng phổ biến và coi như tiêu chuẩn để do lường sự mất giả của tiền quốc gia, đồng tiền càng giảm giá so với vàng và ngoại tệ bao nhiêu, nó lại có tác động nâng giá hàng hóa lên cao bấy nhiêu, trong trưởng hợp này người ta bán hàng dựa trên cơ sở quy đổi giá vàng hoặc ngoại tệ để bán, mà không căn cứ vào giá trị tiền tệ quốc gia nữa.
Trong điều kiện hệ thống ngân hàng được mở rộng lạm phát còn thể hiện ở chỗ khối lượng tiền ghi sổ tăng nhanh chóng, bên cạnh khối lượng tiền mặt phát hành ra trong lưu thông. Nhưng điều cần lưu ý là khi khối lượng tiền ghi sổ tăng lên, khối lượng tín dụng tăng lên, nó có ý nghĩa lớn trong việc tác động đến sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Như vậy lạm phát trong điều kiện hiện đại còn có nghĩa là sự tăng các phương tiện chi trả trong đó có khối lượng tín dụng ngắn hạn gia tăng nhanh chóng.
Lạm phát trong điều kiện hiện đại còn là chính sách của các Nhà nước nhằm kích thích sản xuất, chống lại nạn thất nghiệp, bù đáp các thiếu hụt của ngân sách.
Lạm phát đôi khi được những kẻ bóc lột lợi dụng để bóc lột nhiều hơn nữa những người làm công ăn lương.
Điều dễ dàng thấy nhất là khi lạm phát gia tăng, giá cả hàng hóa tăng nhanh hơn gia tăng tiền lương vì vậy mà các nhà Tư bản đã dàng kiếm được lợi nhuận do bán hàng.
Đặc biệt lạm phát để chạy đua vũ trang bù đắp chi phí quân sự thì Tư bản công nghiệp sản xuất vũ khí là có lợi nhiều nhất. Tuy nhiên không nhất thiết là lạm phát phải là có lợi duy nhất cho những các nhà Tư bản sở hữu nhiều tài sản, mà đôi khi nó lại là chính sách kích thích sự phát triển kinh tế vì nó làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản xuất, có tác dụng kích thích sự tiêu dùng của Chính phủ và nhân dân. Vì vậy trong một chừng mực nhất định lạm phát thấp sẽ có tác dụng kích thích sự phát triển kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên việc sử dụng chính sách như vậy cần phải thận trọng vì nó dễ dẫn đến sự quá đà đưa lạm phát với tốc độ cao.
3. Nguyên nhân của lạm phát
Ở đây, chúng ta chỉ tập trung nghiên cứu lạm phát do nguyên nhân cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy.
– Lạm phát do nguyên nhân cầu kéo.
Chi tiêu của Nhà nước tăng thường xuyên cho y tế, giáo dục, quốc phòng, – và do nhu cầu khuếch trương nền kinh tế. Nhà nước chủ trương phát hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp cho các chi phí nói trên đang bị thiếu hụt.
Như vậy sự tăng lên của tổng cầu có thể do nhiều nhân tố tác động, như cung tiền tệ tăng; thuế giảm; xuất khẩu ròng tăng thông thường các nguyên nhân chủ yếu của lạm phát cầu kéo là:
Do bội chi ngân sách Nhà nước thường xuyên và kéo dài.
Do việc kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông của ngân hàng trung ương không chặt chẽ, làm cho khối lượng tiền trong lưu thông vượt quá khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian.
Do chất lượng tín dụng kém, không thu hồi được vốn, làm mất cân đối quan hệ tiền – hàng.
Do tiền lương tăng quá cao, tạo sức cầu hàng hóa lớn, vượt quá khả năng cung ứng hàng hóa của nền kinh tế.
Ngoài ra có thể do các nguyên nhân về tâm lý, như ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng về chính trị, quân sự, kinh tế, hoặc do thiên tại như động đất, bão, núi lừa, sụt bùn, lở núi, v.v.. làm cho dân chúng hoang mang đổ xô đi mua vét hàng hóa, làm sức cẩu hàng hóa gia tăng nhanh chóng, kéo giá cả hàng hóa tăng lên.
Bản chất của lạm phát cầu kéo là do nhu cầu hàng hóa tăng nhanh vượt quá khả năng cung ứng hàng hóa nên kéo giá cả hàng hóa tăng lên.
– Lạm phát do nguyên nhân chi phi đẩy
Trong điều kiện cơ chế thị trường chưa đạt tới tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm, không có một quốc gia nào lại có thể duy trì được trong một thời gian dài với công ăn việc làm đầy đủ cho mọi thành viên trong xã hội, giá cả ổn định và có một thị trường hoàn toàn tự do.
Hình 1: Lạm phát do nguyên nhân cầu tăng vượt sản lượng tiềm năng, đường cầu DD1, vượt quá sản lượng tiềm năng. Giá cả tăng từ P lên P’. Đường cung SS’ có độ dốc lớn và cân bằng cung, cầu được lập lại ở một thế mới với giá cả là P’, dường cầu mới là D1D’1.
Trong điều kiện hiện nay, xu hướng tăng giá cả các loại hàng hóa và tiền lương công nhân luôn luôn diễn ra trước khi nền kinh tế đạt được một khối lượng công ăn việc làm nhất định. Điều đó có nghĩa là chi phí sản xuất đã đẩy giá cả tăng lên ngay cả trong khi các yếu tố sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ. Lạm phát xảy ra như vậy có nguyên nhân là do sức đẩy của chi phí sản xuất.
Vấn đề đặt ra là tại sao chi phí sản xuất lại tăng lên? Nhiều nhà kinh tế cho rằng tăng tiền lương là một nguyên nhân đẩy chi phí tăng lên, vì chi phí đầu vào có liên quan đến tiền lương tăng. Theo các nhà kinh tế học, việc đẩy chi phi tiền lương tăng lên là do các công đoàn gây sức ép đòi tăng lương, giảm giờ làm. Tuy nhiên một số nhà kinh tế khác cho rằng chính công đoàn ở các nước tư bản đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm tốc độ tăng của lạm phát và giữ không cho lạm phát giảm xuống quá nhanh, vì các hợp đồng tiền lương của các công đoàn thường là dài hạn và khó thay đổi.
Tuy nhiên chúng ta cũng có thể thấy rằng nếu tốc độ tăng tiền lương nhanh hơn tốc độ của năng suất lao động sẽ đẩy chi phí sản xuất tăng lên. Có nghĩa là chi phí tiền công trong một đơn vị sản phẩm tăng lên đã đẩy giá cả hàng hóa tăng lên.
Thực chất ở các nước Tư bản phát triển, khi các cuộc đấu tranh của công đoàn đạt được một thỏa thuận về mức lương mới, thì các nhà Tư bản lại tìm cách lấy lại khoản mà họ mất đi do tăng tiền lương công nhân bằng cách nâng giá bán hàng hóa lên hoặc việc tăng chi phí quản lý hành chính như chi phí tiếp khách, chi phí ngoài sản xuất khác cũng làm cho chi phí sản xuất tăng lên và do vậy đẩy giá cả tăng lên.
Các cuộc khủng hoảng về các loại nguyên liệu cơ bản như dầu mỏ, sắt thép sẽ làm cho giá cả của các loại hàng hóa này tăng lên và điều đó đã đẩy chi phí sản xuất tăng lên, nói chung việc tăng chi phí sản xuất do rất nhiều nguyên nhân khác nhau.
Cũng có thể do sản xuất không có hiệu quả. Vốn bỏ ra nhiều hơn nhưng sản phẩm thu lại không tăng lên hoặc tăng chậm hơn tốc độ tăng của chi phí sản xuất.
Lạm phát do sức đẩy chi phí được thể hiện trên đồ thị hình 2 như sau:
Hình 2: Trên sơ đồ ta thấy là cầu chưa đạt đến sản lượng tiềm năng, đường cung SS1 , gặp đường cầu DD ở E, giá cả được xác định ở P. Đường cung có xu hướng di chuyển từ SS1, lên S’S’1, đường cung S’S’1 gặp đường cầu DD’ ở E’ làm cho giá cả tăng từ P lên P’.
– Lạm phát ỳ.
Một số nhà kinh tế cho rằng: lạm phát ỷ là lạm phát chỉ tăng với một tỷ lệ không đổi hàng năm trong một thời gian dài. Ở những nước có lạm phát ỳ xảy ra có nghĩa là nền kinh tế của nước đó có một sự cân bằng trông đợi tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ được trông đợi và được dự kiến trong các kế hoạch phát triển hàng năm của Chính phủ.
Tỷ lệ lạm phát đó được ngân hàng trung ương, giới Tư bản và cả giới lao động thừa nhận và phê chuẩn nó. Đó là một sự lạm phát hoàn toàn nằm trong kết cấu biểu hiện một sự cân bằng trung hòa và nó chỉ biến đổi khi có sự chấn động kinh tế xảy ra (tỷ lệ y tăng hoặc giảm). Nếu như không có sự chấn động nào về cung hoặc cầu thì lạm phát có xu hướng tiếp tục theo tỷ lệ cũ.
Hình 3: Bằng hình ảnh trên đồ thị hình 3, chúng ta giả sử rằng sự tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc dân là không có. Khi lạm phát tăng với tỷ lệ hàng năm là một tỷ lệ nào đó thì chi phí trung bình cũng tăng lên cùng tỷ lệ. Chi phí tăng lên đẩy đường cung tăng lên, dẫn đến giá cả và tiền lương tăng lên theo vòng xoáy trôn ốc.
Lạm phát ỳ dẫn tới giá cả hàng hóa tăng lên hàng năm với một tốc độ như cũ, D’D’1, D”D”1, và đường cung SS1, S’S’1, S”S”1, cùng dịch chuyển lên trên với một tốc độ giống nhau hàng năm và kinh tế vĩ mô nhận điểm cân bằng mới là E rồi E’, E”…
4. Tác động của lạm phát
Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế như thế nào? điều mà mọi giới trong xã hội luôn luôn quan tâm. Lạm phát thường tác động cả hai mặt: tích cực khi lạm phát thấp và tiêu cực khi lạm phát ở mức phi mã hoặc siêu tốc.
* Lạm phát làm phân phối lại thu nhập và của cải giữa các giai cấp khác nhau.
Khi có lạm phát những người có tài sản, những người đang vay nợ là có lợi, vì giá cả các loại tài sản, hàng hóa đều tăng lên, còn giá trị tiền tệ lại giảm xuống. Những người làm công ăn lương chỉ có nguồn thu nhập chính là tiền lương và những người gửi tiền là bị thiệt hại.
Vì vậy để tránh thiệt hại, một số nhà kinh tế đưa ra bài tính đơn giản là lãi suất cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát.
Ví dụ lãi suất thực tế là 5% năm, tỷ lệ trượt giá là 9% năm thì lãi suất danh nghĩa phải là 14% năm.
Tuy nhiên một sự điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát chỉ có thể thực hiện ở mức lạm phát thấp, lạm phát ở mức một con số hàng năm. Khuynh hướng chung là khi dự đoán có lạm phát, người ta thường dự trữ vàng hoặc đầu tư vào bất động sản hoặc đầu tư các tài sản có giá trị khác.
Trong khoảng thời gian từ năm 1987 đến năm 1988 nhiều người đầu cơ vàng và bất động sản ở Việt Nam đã giàu lên nhanh chóng, còn những người làm công ăn lương thì ngày một bần hàn hơn, khó khăn hơn.
Nhìn chung những người dự trữ vàng vẫn có lợi nhất, vì giá vàng so sánh với các loại hàng hóa cao cấp như: ô tô, xe máy kể cả các loại hàng hóa thông thường như: gạo, muối, đường và ngoại tệ thì không suy giảm chút nào. Vì vậy trong thời kỳ giá Vàng xuống mức rất thấp họ tăng cường mua Vàng và bán ra khi giá Vàng được nâng lên. Trong thời kỳ này những người gửi tiền tiết kiệm là bị thiệt hại nhiều nhất.
Lạm phát với mức độ phi mã hoặc siêu tốc thì nợ nần của Chính phủ được giảm bớt, song Chính phủ sẽ bị áp lực chính trị của đông đảo quần chúng, nhân dân lao động bị thiệt hại do lạm phát xảy ra.
* Tác động của lạm phát đối với phát triển kinh tế và công ăn việc làm.
Đối với nền kinh tế thị trường, khi lạm phát xảy ra cơ bản là có tác động làm tăng trưởng nền kinh tế và tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn.
Nhưng trong nền kinh tế bao cấp thì không như vậy, vì việc sản xuất nhiều hay ít đều do Nhà nước quy định về số lượng, giá cả được Nhà nước ấn định, nên việc thúc đẩy của lạm phát đối với gia tăng sản xuất là không có. Tất nhiên sản xuất không gia tăng nên khối lượng công ăn việc làm cũng không tăng thêm, mọi thành viên trong xã hội đang còn trong độ tuổi lao động đều có chỗ làm, nhưng không có đủ việc để làm, một dạng thất nghiệp trá hình diễn ra khá phổ biến.
Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát đồng nghĩa với cung tín dụng phát triển quá nhanh chóng, các nhà kinh doanh có cơ hội để đầu tư thêm, công ăn việc làm cũng được tạo ra nhiều hơn. Nhưng khi lạm phát giảm thì lao động và tư bản bị bỏ không, không sử dụng hết năng lực của nền kinh tế. Các món nợ của ngân hàng và các chủ nợ khác sẽ dễ dàng thu lại được trong thời kỳ lạm phát, nhưng nếu là ngân hàng tư nhân họ sẽ không thiệt hại gì cả. Chỉ có người gửi tiền mới bị thiệt.
Do kinh tế phát triển, các dịch vụ ngân hàng cũng nẩy sinh ra nhiều hơn và ngân hàng phát triển mạnh. Nhưng nếu hệ thống ngân hàng thương mại chủ yếu là ngân hàng của Nhà nước hoạt động bằng vốn ngân sách thì thật là một nguy cơ lớn khi có lạm phát, vốn được cấp sẽ bị giảm dẫn cùng chiều với tốc độ của lạm phát, nên càng bổ sung thêm vốn thì tốc độ lạm phát sẽ tăng lên nhanh chóng.
Khi lạm phát tăng lên, có khuynh hướng gia tăng tiền lương và chi phí sản xuất trong điều kiện bao cấp do kinh tế phát triển không phù hợp với mức tăng của lạm phát nên tài sản quốc gia sẽ bị mất mát đáng kể và đến khi Nhà nước sử dụng các biện pháp để đẩy lùi lạm phát thì lập tức nhiều món tiền cho vay của Nhà nước không được hoàn trả, nợ khó đòi tăng lên và Nhà nước vẫn cứ bị nghèo đi.
Tuy nhiên cần lưu ý là tùy vào mức độ lạm phát mà sự thiệt hại của lạm phát sẽ như thế nào, lạm phát thấp có thể không gây thiệt hại gì cho nền kinh tế, lạm phát siêu tốc sẽ có tác hại trầm trọng. Mặt khác về khía cạnh chính trị, nếu lạm phát cao sẽ tạo ra sự phản ứng lại chính quyền Nhà nước của nhân dân lao động, xung đột giai cấp sẽ xảy ra ảnh hưởng xấu đến sự bền vững của nền chính trị – xã hội.
* Các tác động khác của lạm phát.
– Lạm phát cân bằng có dự tính trước: đây là một trường hợp lý tưởng khi giá cả tăng lên 10% chẳng hạn, thu nhập danh nghĩa cũng tăng lên 10% có nghĩa là lạm phát không ảnh hưởng gì đến thu nhập, nó không phân phối lại thu nhập. Ở đây Nhà nước đã dự đoán trước được thu nhập và điều chỉnh các chính sách cho phù hợp, người dân cũng vậy, họ cũng được biết trước tỷ lệ của lạm phát và điều chỉnh các hành vi kinh tế của mình cho phù hợp.
Một cuộc lạm phát vừa cân bằng, vừa dự đoán trước được không có ảnh hưởng gì đến sản lượng thực tế, hoặc phân phối lại thu nhập.
– Lạm phát không cân bằng: Thực tế là lạm phát thường đẩy các loại chi phí tăng lên, đẩy thuế tăng lên. Có nghĩa là nó có ảnh hưởng đến sản lượng và thu nhập.
Ví dụ: Chính phủ quy định thuế suất thuế thu nhập cá nhân, thuế VAT… khi lạm phát chính sách thuế sẽ không thay đổi kịp, nên người có thu nhập tăng lên nhanh chóng phải đóng thuế nhiều hơn, Nhà nước thu được nhiều thuế hơn, còn người dân bị thiệt hại do phải đóng thuế cho Nhà nước.
Khi lạm phát tăng người ta có khuynh hướng giữ hàng hóa, bất động sản và các tài sản khác không bị mất giá như vàng, ngoại tệ. Tiền gửi ở ngân hàng sẽ bị người gửi rút ra để mua hàng hóa, các nhà sản xuất kinh doanh phải tính toán khoản dự trữ tiền mặt của mình vừa phải để không bị thiệt hại do giữ nhiều tiền quá. Nhưng vấn đề là tiền tệ cứ phải lưu thông nên vòng quay của nó tăng rất nhanh làm cho lượng tiền trong lưu thông bị dư thừa càng lớn hơn, tốc độ lạm phát sẽ bị đẩy lên nhanh hơn.
Trong nền kinh tế thị trường có điều tiết, lạm phát có tác động tế nhị hơn, đó là các nhà kinh doanh công nghiệp và thương nghiệp thường xin điều chỉnh giá cho phù hợp với sự tăng giá cả của thị trường.
Trong tình hình lạm phát phát triển nhanh, giá cả tăng lên thường không giống nhau ở: tỷ lệ; các khu vực; các địa phương;…. Có nghĩa là các thông tin về giá cả sẽ không chính xác. Quá trình mua bán trở nên hỗn loạn, vì mọi người luôn muốn tìm đến nơi có giá thấp. Nếu lạm phát là không cần bằng và không dự đoán trước được, nó có tác hại về cả mặt hiệu quả, cả về mặt phân phối lại thu nhập quốc dân.
Sự tác hại của lạm phát có thể tóm tắt qua một số điểm chính như sau:
Nếu lạm phát là cân bằng và dự đoán trước được: Lạm phát loại này không gây ra tác hại gì lớn cho nền kinh tế và đời sống dân cư.
Nếu lạm phát là cân bằng nhưng không dự đoán trước được sẽ gây ra sự phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các tầng lớp dân cư.
Nếu lạm phát không cân bằng, nhưng có dự đoán trước sẽ không gây ra sự tác hại đối với phân phối thu nhập quốc dân, nhưng gây ra thiệt hại về hiệu quả kinh tế. Nếu lạm phát không cân bằng và không dự đoán trước được nó gây thiệt hại về hiệu quả của nền kinh tế và phân phối lại thu nhập quốc dân.
Nhìn chung, các Nhà nước đều mong muốn duy trì một tỷ lệ lạm phát thấp. Chính phủ các nước sẽ thực hiện một số biện pháp để kiềm chế lạm phát, ví dụ như kiềm chế sự phát triển của sản lượng thực tế và gia tăng thất nghiệp.
Người ta quan sát các cuộc lạm phát và quá trình kiểm soát lạm phát ở các nước trên thế giới đều thấy rằng, kết quả bao giờ cũng là một thời kỳ suy thoái, công nhân thiếu việc làm, tỷ lệ thất nghiệp cao.
Tuy nhiên cũng cắn thấy rằng lạm phát thấp lại là một nhân tố kích thích kinh tế: sản lượng của nền kinh tế tăng lên, số lượng công ăn việc làm nhiều hơn.
Giữa lạm phát và thất nghiệp có một mối quan hệ nghịch biến, Trong cơ chế thị trường, khi lạm phát tăng lên thì thất nghiệp giảm xuống và ngược lại khi lạm phát giảm xuống thì thất nghiệp lại tăng lên.
Nhà kinh tế học A.W. Philip đã từng định hướng những yếu tố nhất định về lạm phát và ông đã đưa ra một luận thuyết về mối quan hệ giữa thất nghiệp và việc tăng giá cả – tiền lương. Mối quan hệ này được A.W.
Philip diễn tả trên một đường cong gọi là đường cong Philip (hình 4).
Hình 4: Đường cong Phillips ban đầu đơn giản này được gọi là “lý thuyết trao đổi về lạm phát”. Theo quan điểm này, một nước có thể mua một mức độ thất nghiệp thấp hơn nếu sẵn sàng trả giá một mức độ lạm phát cao hơn.
Tuy nhiên, theo Samuelson thì đường cong Phillips chỉ có giá trị cho thời gian trước mắt, về lâu dài nó không có giá trị vì thực tế cho thấy có nhiều lúc giá cả tăng lên song thất nghiệp vẫn xảy ra.
Một vấn đề nữa cần lưu ý là nếu trong khi Nhà nước áp dụng biện pháp để giảm giá, giá cả có thể hạ xuống nhưng lạm phát vẫn còn xảy ra chứ không thể nào chấm dứt được.
(Tài liệu tham khảo: TS. Lê Thị Mận, Lý thuyết Tài chính Tiền tệ)