Trang chủ Tâm lý học Văn hóa giao tiếp là gì? Nguyên tắc giao tiếp có văn hóa

Văn hóa giao tiếp là gì? Nguyên tắc giao tiếp có văn hóa

by Ngo Thinh
Published: Last Updated on 638 views

Văn hóa giao tiếp là gì? Thế nào là giao tiếp có văn hóa? Những nguyên tắc chung của sự giao tiếp có văn hóa, có nghệ thuật

Văn hóa giao tiếp của xã hội

Trong quá trình phát triển lịch sử của nó, sự giao tiếp giữa người với người trong một xã hội và một dân tộc nào đó được kế thừa từ thế hệ trước sang thế hệ sau, nó hoàn thiện dần dần để cuối cùng được thực hiện theo những nguyên tắc, những chuẩn mực, những qui định và những truyền thống nhất định mà xã hội, dân tộc đó coi là có giá trị đạo đức và thẩm mỹ. Đó là văn hóa giao tiếp của xã hội, dân tộc.

Văn hóa giao tiếp của một xã hội, một dân tộc là toàn bộ những nguyên tắc, những chuẩn mực và những qui định chỉ đạo hoạt động giao tiếp giữa người và người trong xã hội đó, thuộc dân tộc đó, để sự giao tiếp đó được đánh giá là có giá trị đạo đức, có giá trị thẩm mỹ, hợp lý, phù hợp với quan niệm của xã hội và dân tộc về văn hóa và văn minh, về truyền thống và bản sắc của dân tộc mình, phù hợp với những điều kiện tự nhiên, xã hội, kinh tế, văn hóa của dân tộc đó. Văn hóa giao tiếp của một xã hội, một dân tộc được thể hiện thành tập quán, phong tục, truyền thống của xã hội, dân tộc.

Ngoài sự giao tiếp giữa những người trong cùng một nước với nhau, còn có sự giao tiếp giữa người nước này, dân tộc này với người nước khác, dân tộc khác. Đó là sự giao tiếp quốc tế. Sự giao tiếp quốc tế, với tính chất là sự giao tiếp giữa hai người thuộc hai dân tộc và hai đất nước khác nhau tất nhiên không thể thực hiện bằng cách tuân theo những nguyên tắc, chuẩn mực và qui định của chỉ một bên nào, mà phải có những nguyên tắc, chuẩn mực và qui định chung, mang tính quốc tế, cho sự giao tiếp quốc tế giữa hai bên. Trên thực tế, mỗi bên, khi thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực, qui định của quốc tế trong giao tiếp, đều có thể biểu lộ sắc thái dân tộc của mình, nhất là về phía chủ nhà.

Ví dụ: Tại sân bay hay Dinh Tổng thống của một nước Châu Á, việc đón tiếp hay tiễn đưa một Tổng thống Châu Âu được diễn ra theo những nghi lễ ngoại giao đã được qui định của Cộng đồng Quốc tế. Tuy nhiên điều đó không ngăn cấm các vị chủ nhà thực hiện thêm một vài nghi thức đón tiếp hay tiễn đưa mang sắc thái dân tộc của nước chủ nhà, như quàng vòng hoa lên cổ khách, chắp tay vái khách hay buộc chỉ vào tay…

Tóm lại, ngoài văn hóa giao tiếp của từng nước, từng dân tộc, còn có văn hóa giao tiếp trong quan hệ quốc tế giữa nước này, dân tộc này với người nước khác, dân tộc khác. Đó là văn hóa giao tiếp quốc tế mà bất cứ ai có quan hệ với người nước ngoài ở trên đất nước mình hay tại đất nước người đều cần biết, nhất là những người làm công tác ngoại giao, ngoại thương…

Trình độ văn hóa giao tiếp của mỗi con người

Măc dù mỗi xã hội, mỗi đất nước, mỗi dân tộc đều có văn hóa giao tiếp mang tính truyền thống của mình, nhưng sự giao tiếp của mỗi con người trong xã hội đó, của đất nước và dân tộc đó có là sự giao tếp có văn hóa hay không và sự giao tiếp có văn hóa đó có mang sắc thái truyền thống của dân tộc hay không (hay là mang sắc thái ngoại lai mất gốc) lại là chuyện khác. Điều đó tuỳ thuộc vào chỗ mỗi người có được gia đình và nhà trường giáo dục về văn hóa giao tiếp hay không và tuỳ thuộc vào chỗ người đó có được sống và hoạt động trong một môi trường, một hoàn cảnh có văn hóa hay không.

Như thế có nghĩa là: Văn hóa giao tiếp là một mặt, một bộ phận của văn hóa nói chung. Và trong quan niệm về một con người có văn hóa phải bao gồm và phải có cả văn hóa giao tiếp. Văn hóa giao tiếp là văn hóa về đạo đức và thẩm mỹ mà ta thường gọi là phép lịch sự. Và như vậy, khi nói đến trình độ văn hóa nói chung của một con người, chúng ta phải hiểu và phải đòi hỏi rằng trong đó có trình độ văn hóa về giao tiếp, có sự hiểu biết và thói quen giao tiếp theo phép lịch sự.

Tất nhiên, điều đó cũng có nghĩa là văn hóa giao tiếp chỉ là một mặt, một bộ phận chứ không phải là tất cả, là toàn bộ văn hóa. Và một người nào đó là người tốt, người thật thà, người có lòng nhân hậu lại có thể vụng về, sai sót, thô thiển trong cách giao tiếp. Trình độ văn hóa giao tiếp của anh ta, do chưa được học để biết và chưa tập luyện để thành thói quen, là trình độ văn hóa giao tiếp thấp. Nhưng anh ta không phải là người xấu. Ngược lại, một người nào đó có thể tỏ ra rất lịch sự, biết thực hiện một cách đầy đủ và thông thạo mọi quy định của sự giao tiếp có văn hóa, nhưng lại có thể là một con người giả dối. Anh ta có trình độ văn hóa giao tiếp cao, nhưng đây chỉ là cái bề ngoài ngụy trang cho một tính cách xấu xa. Cái “văn hóa” đó trong sự giao tiếp của anh ta là thứ “văn hóa” giả dối, “đóng kịch” mà thôi.

Những nguyên tắc chung của sự giao tiếp có văn hóa, có nghệ thuật

Sự giao tiếp giữa người này với người kia, nếu đó là một sự giao tiếp được đánh giá là “có văn hóa”, “có nghệ thuật” phải là một sự giao tiếp thể hiện được tính khoa học, tính đạo đức, tính thẩm mỹ, tính dân tộc và tính quốc tế, tính truyền thống và tính hiện đại. Đó là những nguyên tắc chung của sự giao tiếp có văn hóa, có nghệ thuật.

1. Tính khoa học

Tính khoa học của sự giao tiếp (nhất là trong giao tiếp khoa học, kinh doanh, hành chính, ngoại giao, giao tiếp lễ nghi … ) thể hiện ở chỗ: nội dung, hình thức, phương pháp giao tiếp phải phù hợp với mục đích và tính chất giao tiếp.

  • Trong giao tiếp khoa học, nội dung giao tiếp phải là nội dung khoa học, mặc dù có thể đề cập tới những vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội liên quan đến nội dung khoa học. Về giá trị khoa học của nội dung giao tiếp trong giao tiếp khoa học bao giờ cũng là yêu cầu chủ yếu.

Ngoài ra, trong một hội nghị khoa học, việc sắp xếp chương trình làm việc, hình thức và phương pháp trao đổi ý kiến khoa học (báo cáo, tham luận, phát biểu ý kiến, thảo luận, tranh luận v.v…) cũng đòi hỏi phải có tính khoa học.

  • Trong giao tiếp kinh doanh, ví dụ trong việc trao đổi ý kiến thăm dò, thảo luận và thương lượng để cuối cùng ký một bản hợp đồng giữa bên A và bên B, cũng đòi hỏi phải có tính khoa học. Ví dụ: Trong văn bản hợp đồng, mọi từ ngữ được dùng đều phải chính xác và cả hai bên A và B đều hiểu thống nhất như nhau, không thiếu một điều khoản không cần thiết nào, hay nói cách khác, văn bản hợp đồng phải súc tích, rõ ràng và vừa đủ.
  • Trong giao tiếp hành chính và ngoại giao, tính khoa học của nó là ở chỗ nó tuân thủ những nguyên tắc, những luật lệ, những quy định của nhà nước và của công pháp Quốc tế. Mặc dù có tính chất thân mật, nó vẫn không được vi phạm hoặc vượt ra ngoài khuôn khổ của những nguyên tắc, luật lệ, quy định, thủ tục hành chính và ngoại giao. Tư cách của người giao tiếp, cả bên này lẫn bên kia, đều phải rõ ràng, đúng và đủ, để sự giao tiếp được thực hiện đúng nguyên tắc, luật lệ và thủ tục đã được quy định (từ chỗ ngồi đến chỗ ký vào một văn bản thoả thuận giữa hai bên).
  • Trong giao tiếp nghi lễ (theo phong tục, tập quán của dân tộc hay của địa phương), tính khoa học là ở chỗ sự giao tiếp đó làm đúng theo các thủ tục truyền thống, không thừa và không thiếu (ví dụ: trong đám cưới, trong lễ mừng sinh nhật hay trong một lễ hội nào đó), đồng thời, cùng với sự tiến bộ xã hội và sự nâng cao dân trí, mỗi loại giao tiếp nghi lễ nói trên đều có thể mang tính sáng tạo (thêm vào một vài tiết mới, cải tiến một vài tiết mục cũ hoặc bỏ đi một tiết mục nào đó nếu xét thấy đã lỗi thời, mê tín dị đoan, mất vệ sinh, phản khoa học…)
  • Trong giao tiếp bình thường giữa người này với người khác, tính khoa học thể hiện nội dung nói chuyện có tính trí tuệ (do trình độ học vấn cao của người giao tiếp), nói chính xác, ngắn gọn, rõ ràng, mạch lạc.

2. Tính đạo đức

  • Nói chung, tính đạo đức của sự giao tiếp (nhất là trong giao tiếp bình thường giữa người này với người kia trong quan hệ riêng tư giữa cá nhân và cá nhân) thể hiện ở thái độ quý trọng, tin tưởng, thương yêu, cởi mở, thông cảm, chia sẻ, ủng hộ, giúp đỡ đối với người mà mình giao tiếp, đồng thời cũng thể hiện ở thái độ tự trọng, biết tự kiềm chế, nhường nhịn, khiêm tốn, chân thành của người giao tiếp.
  • Trong giao tiếp giữa những người trong gia đình, tức là giữa vợ và chồng, giữa con cái và cha mẹ, giữa anh chị và em, giữa ông bà và cháu chắt… tính đạo đức của giao tiếp thể hiện ở tình thương yêu đối với nhau, sự nhường nhịn đối với nhau, sự hy sinh cho nhau, sự chịu đựng những gian nan, vất vả, thiệt thòi vì tình thương và trách nhiệm đối với
  • Trong giao tiếp giữa hai người là bạn hoặc là người yêu của nhau, tính đạo đức thể hiện ở sự tôn trọng nhau, thông cảm và chia sẻ cho nhau, giúp đỡ nhau, ủng hộ nhau trong các công việc tốt, chung thuỷ, không phản bội nhau, không lợi dụng nhau.
  • Trong giao tiếp giữa hai người là cấp trên và cấp dưới của nhau trong công tác nhà nước và xã hội, trong doanh nghiệp, trong cơ quan hành chính và nghiệp vụ… tính đạo đức thể hiện ở chỗ sự tôn trọng của người cấp trên đối với nhân phẩm, đối với quyền lợi của người cấp dưới, sự độ lượng và tha thứ, sự công bằng và sự quan tâm đến đời sống đối với người cấp dưới. Mặt khác, người cấp dưới phải tỏ ra kính trọng, trung thực, thẳng thắn và làm tròn trách nhiệm đối với người cấp trên.

Người cấp trên không đối xử thô bạo, hống hách, đe doạ, khinh bỉ với người cấp dưới, và người cấp dưới không luồn cúi, nịnh bợ, đút lót cho người cấp trên. Cả hai người giao tiếp với nhau và vì lợi ích chung của tập thể và của toàn xã hội.

  • Trong giao tiếp giữa những người không quen biết nhau, tính đạo đức thể hiện ở chỗ sẵn sàng giúp đỡ nhau theo yêu cầu và theo khả năng, tôn trọng nhau, không lợi dụng sự không quen biết để có thái độ thô bạo, không tốt đối với nhau hoặc làm hại nhau vì vụ lợi, ích kỷ cá nhân.

3. Tính thẩm mỹ

Tính thẩm mỹ của sự giao tiếp thể hiện ở chỗ: Một là, tính khoa học và tính đạo đức được mỹ hóa, tức là được thể hiện một cách cao nhất và khéo léo nhất để thành cái đẹp, cái “có duyên”, cái hoàn chỉnh ở ngoại hình của người giao tiếp, ở bộ mặt, lời nói, cử chỉ, hành vi của người giao tiếp. Hai là, ở cái đẹp tự nhiên vốn có ở ngoại hình, lời nói, cử chỉ, hành vi của người giao tiếp và ở cái đẹp của không gian trong đó diễn ra cuộc giao tiếp.

Thật vậy, một bộ mặt hiền lành, vui tươi, chân thật, có một đôi mắt biết nhìn… bộ mặt ấy biểu lộ một giá trị đạo đức trong giao tiếp, đồng thời cũng biểu lộ một giá trị thẩm mỹ.

Một lời nói trìu mến, trân trọng, chân thành thể hiện được giá trị đạo đức, đồng thời thể hiện giá trị thẩm mỹ ở chỗ: biết cách diễn đạt rõ ràng, đúng ngữ pháp, biết nhấn mạnh và nói nhẹ lúc cần thiết. Giá trị thẩm mỹ còn thể hiện ở giọng điệu, âm sắc, thanh điệu ngôn ngữ của chủ thể.

4. Tính dân tộc và tính quốc tế

Tính dân tộc của sự giao tiếp thể hiện ở tâm lý dân tộc (tư tưởng và tình cảm truyền thống của con người Việt Nam, tính cách và bản lĩnh của con người Việt Nam trong cả nước và từng vùng) của chủ thể giao tiếp, ở hình thức và phương pháp giao tiếp của chủ thể mang tính dân tộc (theo phong tục, tập quán…). Tính dân tộc trong sự giao tiếp của một người nào đó với người khác là một điều bình thường, tất yếu và có giá trị, vì nó thể hiện sự bình đẳng của các dân tộc. Người dân tộc này, nước này có quyền giao tiếp với người dân tộc khác, nước khác theo cách của mình.

Giá trị của sự giao tiếp mang tính dân tộc thể hiện sự tự hào của một dân tộc, một nước về truyền thống văn hóa của mình (trong đó có văn hóa giao tiếp) và ở chỗ nó là bằng chứng của người giao tiếp đã không đánh mất bản sắc dân tộc trong con người mình.

Trong giao tiếp, tính dân tộc không đối lập với tính quốc tế, trái lại, bên cạnh tính dân tộc, cần có tính quốc tế khi tính quốc tế đó không làm tổn thương hoặc triệt tiêu mà bổ sung cho tính dân tộc.

5. Tính truyền thống và tính hiện đại

Tính truyền thống không đối lập với tính hiện đại trong giao tiếp, trái lại có những truyền thống được hiện đại hóa bằng cách cải tiến, đổi mới và có những cái mới, cái hiện đại không có nguồn gốc trong truyền thống nhưng bổ sung cho cái truyền thống.

Ví dụ: Ngày xưa các cụ uống rượu với nhau cũng có nâng ly để mời nhau uống và cũng để tỏ sự chúc mừng nhau, sự quý mến nhau, nhưng nâng ly bằng cả hai tay cung kính và nâng lên đến ngang đầu. Còn ngày nay, chúng ta không làm như các cụ ngày xưa, mà hiên đại hóa, quốc tế hóa bằng cách chạm ly, cụng ly với người đối diện.

Trong các nguyên tắc đã nêu ở trên, điều quan trọng nhất của sự giao tiếp có văn hóa, có nghệ thuật là tấm lòng của người giao tiếp, tấm lòng thành thực. Thiếu sự thành thực thì mọi sự giao tiếp, dù bề ngoài có vẻ lịch sự đến đâu chăng nữa thì cũng chỉ là sự giả dối, sự “đóng kịch” mà thôi.

5/5 - (2 bình chọn)

Có thể bạn quan tâm

123123

Lytuong.net – Contact: [email protected]