1. Khái niệm tiếng Việt
Tiếng Việt hay Việt ngữ là ngôn ngữ của người Việt (người Kinh) và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam, cùng với gần ba triệu người Việt Nam ở nước ngoài. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Mặc dù tiếng Việt có nguồn từ vựng vay mượn từ tiếng Hán và trước đây dùng chữ Hán (chữ Nho) để viết, sau đó được cải biên thành chữ Nôm, tiếng Việt được coi là một trong số các ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á có số người nói nhiều nhất (nhiều hơn một số lần so với các ngôn ngữ khác cùng hệ cộng lại). Ngày nay tiếng Việt dùng bảng chữ cái Latinh, gọi là chữ Quốc ngữ, cùng các dấu thanh để viết.
Việt Nam là một quốc gia nhiều dân tộc. Theo số liệu thống kê, nước ta có 54 dân tộc, trong đó có dân tộc Việt (còn gọi là dân tộc Kinh). Mỗi dân tộc ấy có ngôn ngữ riêng.
Tiếng Việt là ngôn ngữ của dân tộc Việt và là ngôn ngữ quốc gia của nước Việt Nam
2. Nguồn gốc và quan hệ họ hàng của tiếng Việt
Thành tựu nghiên cứu khoa học nhiều năm gần đây cho rằng tiếng Việt (cùng với dân tộc Việt) có nguồn gốc bản địa. Đây là ngôn ngữ xuất hiện từ rất sớm trên lưu vực sông Hồng và sông Mã, trong một xã hội có nền v ăn minh nông nghiệp.
Tiếng Việt thuộc hệ Nam Á. Đó là một họ ngôn ngữ có từ rất xưa, trên một vùng rộng lớn nằm ở Đông Nam Á, vùng này, thời cổ vốn là một trung tâm văn hóa trên thế giới.
Tiếng Việt có quan hệ họ hàng gần gũi với tiếng Mường; có quan hệ họ hàng xa hơn với nhóm tiếng Môn-Khơme ở vùng núi phía Bắc, ở dọc Trường Sơn, ở miền Tây Nguyên, ở trên đất Cam-pu-chia, Miến Điện…
Ví dụ: từ tay trong tiếng Việt thì từ tương đương trong tiếng Mường là thay, trong tiếng Khơ-mú, tiếng Ba-na, tiếng Mơ-nông, tiếng Stiêng là ti, trong tiếng Khơme là đay, trong tiếng Môn là tai.
Từ cội nguồn ấy, tiếng Việt đã có quá trình phát triển đầy sức sống, gắn bó với xã hội người Việt, với sự trưởng thành mạnh mẽ của tinh thần dân tộc tự cường và tự chủ.
3. Sơ lược về quá trình phát triển của tiếng Việt
a. Tiếng Việt trong thời kỳ phong kiến
Trong một ngàn năm Bắc thuộc và dưới các triều đại phong kiến Việt Nam cho đến trước thời kỳ thuộc Pháp, ngôn ngữ giữ vai trò chính thống ở Việt Nam là tiếng Hán; tiếng Việt chỉ được dùng làm phương tiện giao tiếp trong sinh hoạt hàng ngày. Song cha ông ta đã đấu tranh để bảo tồn và từng bước phát triển tiếng Việt để giành lại những vị trí xã hội bị tiếng Hán chiếm giữ.
Để phát triển tiếng Việt, cha ông ta đã làm hai việc:
– Thứ nhất: Làm phong phú thêm vốn từ bằng cách vay mượn nhiều từ ngữ Hán cổ và Việt hóa chúng để tạo thành từ Hán -Việt;
– Thứ hai: Tạo ra chữ viết cho tiếng Việt, đó là chữ Nôm.
Nhìn chung, tỷ lệ các yếu tố Hán trong tiếng Việt khá lớn (khoảng trên dưới 70%), nhưng về cơ bản chúng đã được Việt hóa. Việt hoá là phương thức tự bảo tồn và phát triển của tiếng Việt trước sự chèn ép của các ngôn ngữ ngoại lai. Theo hướng đó, tiếng Việt vừa giữ nguyên được bản sắc dân tộc, vừa ngày càng được hoàn thiện, tiến nhanh theo kịp trình độ các ngôn ngữ đã phát triển hiện nay trên thế giới.
Trong giai đoạn này, có hai ngôn ngữ là tiếng Việt và văn ngôn Hán; có ba văn tự là chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ được sử dụng.
b. Tiếng Việt trong thời kỳ thuộc Pháp
Trong thời kì thuộc Pháp, ở nước ta tồn tại ba ngôn ngữ: tiếng Pháp, tiếng Việt và văn ngôn Hán; có bốn loại văn tự là: Chữ Pháp, chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ.
Thời kì này, sự tranh chấp giữa ba ngôn ngữ diễn ra theo chiều hướng tiếng Pháp vươn lên chiếm vị trí số một, vai trò của văn ngôn Hán ngày càng giảm, vị thế của tiếng Việt ngày càng được đề cao. Đây là thời kì thay thế dần chữ Hán và chữ Nôm bằng chữ Pháp và chữ Quốc ngữ
Chính sách của nhà cầm quyền Pháp là đồng hoá về mặt ngôn ngữ và văn hoá. Chúng muốn người Việt chấp nhận sử dụng tiếng Pháp, chữ Pháp và chấp nhận văn hoá, chính trị Pháp. Để truyền bá tiếng Pháp và văn hoá Pháp nhằm củng cố nền thống trị của Thực dân Pháp, nhà cầm quyền Pháp buộc phải dùng tiếng Việt làm phương tiện chuyển ngữ. Vì thế, song song với việc dạy tiếng Pháp cho người Việt, thì việc dạy tiếng Việt cho viên chức hành chính Pháp được đặt ra. Do chữ quốc ngữ gần với chữ Pháp nên người Pháp chọn chữ quốc ngữ làm phương tiện dạy và học tiếng Việt. Điều này làm cho chữ quốc ngữ trở thành một phương tiện giáo dục chung.
Dù người Pháp chủ trương sử dụng tiếng Việt và chữ Quốc ngữ là chuyển ngữ nhưng với thái độ rè rặt. Tiếng Việt được dạy chủ yếu ở lớp đồng ấu (lớp một); từ lớp sơ đẳng (lớp hai và lớp ba), học sinh học song ngữ Pháp -Việt; từ năm thứ thứ tư đến năm thứ sáu, tiếng Pháp giữ vị trí áp đảo; từ cấp trung học, tiếng Pháp chiếm vị trí độc tôn.
Bối cảnh xã hội việt Nam thời thuộc Pháp đã tạo điều kiện cho sự phát triển chữ quốc ngữ nề văn hoá bằng chữ quốc ngữ. Văn xuôi tiếng Việt đã hình thành và phát triển. Báo chí, sách vở tiếng Việt ra đời ngày càng nhiều. Nhiều thuật ngữ, từ ngữ mới đã được sử dụng, tuy chủ yếu vẫn là từ Hán Việt như: lãng mạn, dân chủ, bán kính, ẩn số…hoặc từ gốc Pháp như: Săm, axit, cao su, cà phê…
Phong trào thơ mới, tiểu thuyết lãng mạn nở rộ cùng với hoạt động sôi nổi của văn chương báo chí làm cho tiếng Việt thêm phong phú, tinh tế, đa dạng, ngày càng tỏ rõ tính năng động và tiềm năng phát triển dồi dào, đủ sức vươn lên làm tròn trách nhiệm nặng nề trong giai đoạn mới.
c. Tiếng Việt từ Cách mạng tháng Tám đến nay
Với bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2 tháng 9 năm 1945, tiếng Việt đã giành lại được vị trí xứng đáng của mình trong một nước Việt Nam độc lập, tự do. Tiếng Việt đã thay thế hoàn toàn tiếng Pháp trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước và của toàn dân, kể cả lĩnh vực đối ngoại
Trong giai đoạn này, ở nước ta chỉ có một ngôn ngữ là tiếng Việt và một văn tự là chữ quốc ngữ.
Tiếng Việt được dùng ở mọi cấp học và ở mọi lĩnh vực nghiên cứu khoa học từ thấp tới cao. Từ đây, tiếng Việt đã đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu trong sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
4. Chữ viết tiếng Việt
a. Vai trò của chữ viết đối với ngôn ngữ
Chữ viết là hệ thống ký hiệu bằng đường nét được dùng để ghi lại ngôn ngữ.
Đối với dân tộc nào cũng vậy, sự xuất hiện của chữ viết được coi như là một cái mốc quan trọng, có tác dụng quyết định bước tiến mới của nền văn minh, tạo điều kiện cần thiết cho tiếng nói dân tộc trở thành một ngôn ngữ phát triển tới trình độ cao.
Chữ Nôm và chữ quốc ngữ đã phát huy vai trò như vậy đối với tiếng Việt và văn hóa Việt Nam.
b. Chữ Nôm
Sách Tiền Hán thư thời Đông Hán có ghi: “ Thời Đào Đường, có người Việt ở Phương Nam cử sứ giả qua nhiều tầng thông dịch vào triều biếu con rùa thần có lẽ đã sống hàng nghìn năm, trên lưng có khắc chữ như con nòng nọc, ghi chép việc trời đất mở mang. Vua Nghiêu sai chép lại, gọi là Quy dịch”. Với những thông tin trên, ta thấy từ xa xưa, người Việt cổ đã có chữ viết, đã am tường thiên văn lịch pháp, có tri thức tối thiểu cho việc tổ chức xã hội và phát triển sản xuất nông nghiệp. Ngôn ngữ của người Việt và người Hán chắc chắn là rất khác nhau, vì vậy phải qua nhiều tầng thồng dịch mới hiểu được nhau. Cũng có nghĩa là tiếng Hán và tiếng Việt khác nhau về cội nguồn và thuộc hai ngữ hệ. Điều đó khẳng định trên địa bàn nước Văn Lang cổ đại có một ngôn ngữ bản địa và cũng đã có chữ viết.
Trong thời kỳ nước ta bị phong kiến phương Bắc thống trị, chữ Hán giữ vị trí độc tôn. Khi ý thức độc lập, tự chủ và tự cường của dân tộc lên cao, khi yêu cầu phát triển về văn hóa và kinh tế của đất nước trở lên bức thiết, cha ông ta đã sáng chế ra một lối chữ ghi tiếng Việt, đó là chữ Nôm.
Theo các nhà nghiên cứu, chữ Nôm có thể hình thành từ khoảng cuối thế kỷ VIII,
đầu thế kỷ IX, bước đầu được sử dụng từ thế kỷ X đến thế kỷ XII, khi nước nhà đã bước sang kỷ nguyên độc lập, với các triều đại Ngô, Đinh, tiền Lê, Lý, Trần lừng lẫy chiến công và rạng ngời văn hóa.
Với sự ra đời của chữ Nôm, nền văn học viết bằng tiếng nói của dân tộc đã hình thành và phát triển để lại nhiều thành tựu lớn. Tuy nhiên, một mặt do giai cấp phong kiến thống trị sùng bái chữ Hán, khinh rẻ và kìm hãm tiếng nói và chữ viết của dân tộc, mặt khác do chữ Nôm có những nhược điểm nhất định (như ghi âm thiếu chính xác, cách viết không được được quy định thống nhất) cho nên tác dụng của nó không được phát huy đầy đủ. Khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi chữ quốc ngữ bắt đầu được thông dụng, chữ Hán không còn được dùng nữa thì chữ Nôm cũng kết thúc vai trò lịch sử của nó.
c. Chữ quốc ngữ
Từ giữa thế kỷ XVI, nhiều giáo sĩ người Âu đã đến Việt Nam truyền đạo. Họ học tiếng Việt, dùng chữ cái La -tinh ghi âm tiếng Việt để phục vụ cho việc giảng đạo, việc dịch và in các sách đạo.
Ban đầu, việc ghi âm tiếng Việt còn chưa thống nhất. Mãi về sau, gần suốt nửa đầu thế kỷ XVII, họ mới xây dựng nên một lối viết tương đối thống nhất. Chữ quốc ngữ ra đời từ đó.
Trong sự ra đời của chữ quốc ngữ, có phần công sức cộng tác của nhiều người Việt Nam, nhưng vai trò của những giáo sĩ người Âu, nhất là A.đơ Rốt, rất đáng lưu ý. Năm 1651, họ đã cho soạn thảo và xuất bản ở Rô -ma hai bộ sách chữ quốc ngữ đầu tiên. Có giá trị hơn cả là cuốn từ điển Việt -Bồ Đào Nha-La tinh.
Ngày 10/4/1878, Thông tư của Giám đốc Nội vụ Béleard đã chính thức gọi chữ mà các giáo sĩ phương Tây tạo ra là quốc ngữ.
Kể từ khi xuất hiện, chữ quốc ngữ đã có những biến đổi nhất định để đạt tới độ hoàn thiện như hiện nay.
5. Chức năng xã hội của tiếng Việt
Tiếng Việt là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay. Đó là trong giao tiếp thường ngày; trong giao tiếp về chính trị, kinh tế, khoa học, văn hóa, giáo dục, quân sự, ngoại giao…
Tiếng Việt là chất liệu của sáng tạo nghệ thuật – nghệ thuật ngôn từ.
Tiếng Việt là công cụ nhận thức, tư duy của người Việt và nó mang rõ dấu ấn của nếp cảm, nếp nghĩ và nếp sống của người Việt.
Tiếng Việt là phương tiện tổ chức và phát triển xã hội.
Với các chức năng xã hội trọng đại như trên, vị trí và vai trò của tiếng Việt trong cuộc sống xã hội ở Việt Nam cũng như trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định.
6. Đặc điểm và phương thức ngữ pháp của tiếng Việt
Để thực hiện chức năng xã hội như trên, ngoài việc được tổ chức theo nguyên tắc hệ thống và nguyên tắc tín hiệu, tiếng Việt còn có một số đặc điểm riêng trong cơ cấu tổ chức và khi sử dụng cần chú ý:
- Tiếng Việt là một ngôn ngữ phân tiết tính.
- Tiếng Việt là một ngôn ngữ không biến hình.
- Tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu thanh điệu
Tiếng Việt dùng các phương thức ngữ pháp cơ bản sau:
- Phương thức trật tự từ
- Phương thức hư từ
- Phương thức ngữ điệu
7. Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt để sự giàu đẹp phong phú của nó, làm cho nó ngày càng trở nên hữu ích hơn trong giao tiếp xã hội là một vấn đề có lịch sử lâu đời và được đặt ra thường xuyên. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Tiếng nói là tài sản vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”.
Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, chúng ta cần:
- Có tình cảm yêu quý và thái độ trân trọng đối với tiếng nói và chữ viết của dân tộc; phải tìm tòi và phát hiện ra sự giàu đẹp, cùng bản sắc, tinh hoa tiến g nói của dân tộc ở tất cả các phương diện của nó: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong cách.
- Phải rèn luyện một tư duy thường trực và thói quen trong sử dụng tiếng Việt sao cho đạt tới sự đúng đắn, chính xác, sáng sủa, mạch lạc nhằm đạt hiệu quả giao tiếp
- Sử dụng tiếng Việt trong sáng là sử dụng theo các chuẩn mực của tiếng Việt. Đó là chuẩn mực về phát âm và chữ viết, chuẩn mực về từ ngữ, về ngữ pháp và chuẩn mực về phong cách.
- Luôn luôn tiếp nhận những yếu tố ngôn ngữ có giá trị tích cực từ các ngôn ngữ khác đảm bảo các yêu cầu về tính truyền thống và hiện đại để phát triển tiếng Việt hiện đại.
(Nguồn tham khảo: Giáo trình tiếng Việt Thực hành, Trường đại học Nội vụ)