Trang chủ Địa lý kinh tế và xã hội Phát triển bền vững là gì? Khái niệm và nội dung của phát triển bền vững

Phát triển bền vững là gì? Khái niệm và nội dung của phát triển bền vững

by Ngo Thinh
Published: Last Updated on 363 views

1. Khái niệm phát triển bền vững

Tìm hiểu: Khái niệm phát triển

Gần đây chúng ta nghe nhiều đến khái niệm “Phát triển nhanh, bền vững”. Đặc biệt khái niệm này lại được đề cập nhiều trong các văn kiện của Đảng; các bài diễn văn và cả trong đời sống xã hội. Mặc dù còn có sự khác nhau về cách nhìn, điểm xuất phát kinh tế và cả quan điểm chính trị… nhưng đều có sự thống nhất chung rằng: để mỗi quốc gia nói riêng và cả nhân loại nói chung phát triển bền vững, đòi hỏi mỗi quốc gia và nhân loại phải đảm bảo hài hoà cả ba yếu tố: phát triển kinh tế; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Ba yếu tố này luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau cùng thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Năm 1972, thế giới đối mặt với tình trạng khan hiếm năng lượng và ô nhiễm môi trường nặng nề. Liên hiệp quốc đã tổ chức Hội nghị Quốc tế về Môi trường ở Stockholm (Thụy Điển). Trên phạm vi toàn cầu, nhằm tìm cách đối phó với tình trạng cuộc sống ngày càng xấu đi do sự gia tăng của nghèo đói, bệnh tật, thất học, do sự cách biệt ngày càng sâu sắc giữa giàu và nghèo và đặc biệt do sự xuống cấp không ngừng của môi trường, Liên hiệp quốc đã thành lập Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển năm 1983. Báo cáo “Tương lai của chúng ta” của Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) ấn hành năm 1987 đã chính thức đưa ra quan điểm về phát triển bền vững: Phát triển bền vững được hiểu là “là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng (các) nhu cầu (ấy) của các thế hệ mai sau.

Định nghĩa này đã thể hiện được sự quan tâm đến các thế hệ tương lai trong khi tìm cách đáp ứng các nhu cầu hiện tại. Tính bền vững của sự phát triển đòi hỏi:

  • Cân nhắc giữa lợi ích của thế hệ tương lai và thế hệ hiện tại.
  • So sánh giữa chi phí và lợi ích của tăng trưởng kinh tế.
  • Lựa chọn cơ cấu các sản phẩm dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế có lợi nhất cho việc bảo vệ môi trường.
  • Nâng cao hiệu suất: giảm thiểu khối lượng nguyên liệu đầu vào đối với một đơn vị sản phẩm.
  • Sử dụng các vật liệu nhân tạo có khả năng thay thế đối với các tài nguyên ngày càng trở nên khan hiếm.

Đó là quá trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo tôn trọng những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động vật và thực vật. Quan điểm ban đầu về phát triển bền vững chủ yếu chỉ nhấn mạnh đến việc giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa mục tiêu kinh tế với mục tiêu bảo vệ tài nguyên và môi trường sống của con người.

Đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, chúng ta đã phát hiện ra trong quá trình chạy theo các mục tiêu tăng trưởng nhanh con người không chỉ đứng trước thảm họa về tài nguyên, môi trường mà kể cả các tiêu chí về xã hội cũng bị vi phạm. Con người, vị trí trung tâm của sự phát triển cũng bị xúc phạm trong quá trình theo đuổi tăng trưởng nhanh. Người ta biến con người trở thành những công cụ kiếm tiền, vi phạm tôn ti, trật tự, vi phạm đạo đức, nhân quyền. Vì vậy, bước ngoặt quan trọng nhất trong quan điểm về phát triển bền vững được thể hiện ở hội nghị Thượng đỉnh trái đất về Môi trường và Phát triển ở Rio de Janero (Braxin) năm 1992.

Mười năm sau, Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về phát triển bền vững (WSSD) họp tại Johannesburg (Nam Phi) năm 2002 đã tiếp tục khẳng định việc lựa chọn con đường phát triển bền vững được xác định 10 năm trước tại Rio. Chương trình nghị sự đã đưa ra quan điểm phát triển bền vững không chỉ nhấn mạnh về vấn đề môi trường, tài nguyên thiên nhiên mà còn nhấn mạnh nhiều hơn đến yếu tố xã hội, yếu tố con người trong quá trình phát triển của các quốc gia. Quan điểm đầy đủ về phát triển bền vững được Liên hiệp quốc đưa ra là: bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế ổn định trong mối quan hệ với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống.

Như vậy, khái niệm này tiếp tục mở rộng thêm và nội hàm của nó không chỉ dừng lại ở nhân tố sinh thái mà nội dung khái niệm còn bao hàm những khía cạnh chính trị xã hội, đặc biệt là bình đẳng xã hội đi vào yếu tố con người, nó hàm chứa sự bình đẳng giữa những nước giàu và nghèo và giữa các thế hệ. Thậm chí, nó còn bao hàm sự cần thiết giải trừ quân bị, coi đây là điều kiện tiên quyết nhằm giải phóng nguồn tài chính cần thiết để áp dụng khái niệm phát triển bền vững…Với ý nghĩa này, nó được xem là “tiếng chuông” hay nói cách khác là “tấm biển hiệu” cảnh báo hành vi của loài người trong thế giới đương đại.

2. Nội dung phát triển bền vững

Phát triển bền vững được thể hiện ở vùng phối hợp được cả 3 mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường. Nó mang tính tổng hợp bao gồm nhiều yếu tố cấu thành khác nhau như: kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật văn hóa… Mục tiêu của phát triển ngày nay phải là nâng cao điều kiện và chất lượng cuộc sống của loài người, tạo nên cuộc sống công bằng và bình đẳng giữa các thành viên. Để đạt được mục tiêu ấy, trong quá trình phát triển, các quốc gia phải xác định được một cách hợp lý các mục tiêu cụ thể của 3 nội dung phát triển này để tạo nên 3 đỉnh của tam giác phát triển bền vững trong đó:

Mục tiêu bền vững về kinh tế là lựa chọn một tốc độ tăng trưởng hợp lý trên cơ sở một cơ cấu kinh tế phù hợp và có hiệu quả nhất; Mục tiêu bền vững về xã hội tập trung vào việc thực hiện từng bước các nội dung về tiến bộ xã hội và phát triển con người. cụ thể là thực hiện tiến bộ nâng cao dân trí, công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm; Mục tiêu bền vững về môi trường bao gồm khái niệm khai thác và sử dụng tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên, bảo vệ và chống ô nhiễm môi trường, thực hiện tốt quá trình tái sinh và cải thiện chất lượng tài nguyên môi trường, phòng cháy và chặt phá rừng.

a. Bền vững về kinh tế

Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống.

  • Điều kiện đầu tiên là phải có sự tăng trưởng kinh tế (gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế, nó phải diễn ra trong một thời gian tương đối dài và ổn định).
  • Sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế: thể hiện ở tỷ trọng các vùng, miền, ngành, thành phần kinh tế… thay đổi. Trong đó, tỷ trọng của vùng nông thôn giảm tuơng đối so với tỷ trọng vùng thành thị, tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp tăng, đặc biệt là ngành dịch vụ.
  • Cuộc sống của đại bộ phận dân số trong xã hội sẽ trở lên tươi đẹp hơn: giáo dục, y tế, tinh thần của người dân được chăm lo nhiều hơn, môi trường được đảm bảo.

Độ đo kinh tế của sự phát triển bền vững được tính trên giá trị GDP hoặc GNP. Tuy nhiên, với cách tính này, để phát triển kinh tế phải tiêu tốn tài nguyên và tạo ra các chất thải độc hại. Do vậy, trong độ đo này cần phải tính đến việc hạn chế tối đa nhu cầu tiêu thụ tài nguyên không tái tạo và mức độ tái sinh tài nguyên, vật liệu từ các chất thải. Bên cạnh các giá trị bình quân GDP, GNP, sự chênh lệch các giá trị này ở các tầng lớp dân cư khác nhau cũng được tính như một giá trị đo kinh tế của sự phát triển bền vững trên quy mô toàn cầu và được thể hiện ở mức độ và quy mô duy trì viện trợ của các nước công nghiệp phát triển cho các nước đang phát triển; sự công bằng về kinh tế và trao đổi thương mại giữa hai nhóm nước trên thể hiện ở các khía cạnh: tăng giá nguyên liệu thô, hạ giá thiết bị, xoá nợ nước ngoài và trừng phạt kinh tế đối với các nước đang phát triển.

Tính bền vững về kinh tế có thể được thể hiện qua các tiêu chí về phát triển kinh tế quen thuộc như:

  1. Tổng sản phẩm trong nước GDP (Gross Domestic Product)
  2. Tổng sản phẩm quốc gia GNP (Gross National Product)
  3. GDP hay GNP bình quân đầu người.
  4. Tăng trưởng của
  5. Cơ cấu GDP

Một quốc gia bền vững về mặt kinh tế phải đạt yêu cầu sau:

  • Có tăng trưởng của GDP và GNP/người cao. Nước càng nghèo, thu nhập trong thời gian trước càng thấp thì tăng trưởng này càng phải cao. Trong điều kiện hiện nay nước thu nhập thấp phải có tăng trưởng GDP/người vào khoảng 5% mới có thể xem là bền vững về kinh tế. Nếu tăng trưởng thấp hơn thì nền kinh tế này không được xem là bền vững.
  • Có GDP, GDP/người bằng hoặc cao hơn mức trung bình hiện nay của các nước đang phát triển thu nhập trung bình. Nếu tăng trưởng GDP cao nhưng mức GDP/người thấp thì chưa đạt tới mức bền vững.
  • Có cơ cấu GDP lành mạnh nhằm đảm bảo cho tăng trưởng GDP ổn định lâu dài, Cụ thể là tỷ lệ đóng góp của công nghiệp và dịch vụ trong GDP phải cao hơn nông nghiệp.

b. Bền vững về xã hội

Trong giai đoạn hiện nay, phát triển bền vững đã trở thành chiến lược chung của Liên hiệp quốc và các quốc gia trên thế giới. Do vậy, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững là mục tiêu mang tính chất chính trị của tất cả các quốc gia trên thế giới. Phát triển bền vững đòi hỏi tự do thực sự của các công dân, về các thông tin về kế hoạch phát triển của Chính phủ và chất lượng môi trường nơi họ đang sống. Phát triển bền vững đòi hỏi sự công bằng về các quyền lợi xã hội như: có công ăn việc làm, đảm bảo các quyền lợi kinh tế và xã hội khác, giảm bớt hố ngăn cách giữa người giàu và nghèo trong xã hội, …

Phát triển bền vững đòi hỏi phải thay đổi chính sách xã hội cho phù hợp như: chính sách trợ cấp, chính sách thuế để loại trừ xu hướng già hoá ở các xã hội phát triển.

Một số tiêu chí thể hiện sự bền vững về xã hội như sau:

  1. Bảo đảm cho mọi người cùng được tham gia và cùng được hưởng lợi từ sự phát triển (theo năng lực, khả năng và đóng góp của mình).
  2. Bảo đảm tạo cơ hội thuận lợi và bình đẳng để mọi người sử dụng và phát huy một cách tốt nhất năng lực của mình nhằm đóng góp cho sự phát triển và thụ hưởng kết quả của sự phát triển đó.
  3. Bảo đảm việc làm ở mức cần thiết và từng bước tiến tới việc làm an toàn, hợp lý, hiệu quả và có lựa chọn phù hợp cho mọi thành viên trong xã hội.
  4. Bảo đảm công bằng trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ XHCB ở mức trung bình quốc gia phù hợp với trình độ phát triển kinh tế- xã hội cho mọi người dân, bất kỳ họ sống ở đâu, thuộc nhóm xã hội nào.
  5. Bảo đảm cho các nhóm dân cư dễ bị tổn thương có được đầy đủ cơ hội và năng lực vươn lên thoả mãn nhu cầu dịch vụ XHCB của họ.
  6. Giảm bớt sự khác biệt xã hội giữa các nhóm dân cư, dân tộc, vùng lãnh thổ và sự khác biệt giới.
  7. Bảo đảm cuộc sống tinh thần và quan hệ xã hội lành mạnh thúc đẩy phát triển.
  8. Bảo đảm môi trường xã hội trật tự, an ninh, an toàn.
  9. Bảo đảm sự tham gia rộng rãi, có hiệu quả của cá nhân, gia đình và cộng đồng vào các hoạt động quản lý xã hội (mở rộng và phát huy dân chủ) tiến tới hình thành và phát triển xã hội công dân.
  10. Bảo đảm môi trường sinh thái lành mạnh.

Muốn phát triển bền vững quốc gia, hoặc địa phương trong quốc gia phải đạt các điều kiện:

  • HDI tăng trưởng
  • HDI đạt đến mức trung bình

Tính bền vững về xã hội còn có thể được thể hiện qua các tiêu chí như:

Về chỉ số bình đẳng thu nhập

Muốn bền vững một quốc gia, hoặc một địa phương trong quốc gia, phải tránh được những bất ổn xã hội. Nguyên nhân cơ bản của sự bât ổn này là sự bất công bằng trong phân phối thu nhập. Vì vậy, chỉ số bất bình đẳng về thu nhập, thường gọi là chỉ số Gini theo tên người đề xuất. Chỉ số được xem là một mục tiêu chí về tính bền vững xã hội.

Tiêu chí về giáo dục và đào tạo

Tiêu chí về giáo dục và đào tạo thường được trình bày thành những số liệu cụ thể, như: tỷ lệ người biết chữ trong nhân dân ở một độ tuổi nhất định; tỷ lệ người được học các bậc tiểu học, trung học, đại học trong những lứa tuổi nhất định, số sinh viên trên 10. 000 dân, trong đó % sinh viên các ngành công nghệ, số học sinh/giáo viên; ngân sách nhà nước chi cho giáo dục bằng tổng % ngân sách hoặc % tổng GDP.

Tiêu chí về dịch vụ y tế xã hội

Tiêu chí về y tế xã hội thường được cụ thể hóa thành: số trẻ sơ sinh bị chết từ 1000 em; tuổi thọ trung bình; số bác sĩ trên 1000 dân; số giường bệnh cho 1000 dân, tỉ lệ % dân hưởng dịch vụ y tế xã hội, tỷ lệ % dân có nước sách để dùng; tỷ lệ trẻ em dưới 12 tháng tuổi được tiêm chủng phòng dịch bệnh; ngân sách nhà nước chi cho dịch vụ xã hội về y tế bằng tổng % ngân sách, hoặc tổng GDP.

Tiêu chí về hoạt động văn hóa

Tiêu chí về hoạt động văn hoá khó xác định hơn, thường được cụ thể hóa bằng: số tờ báo, ấn phẩm thường được phát hành cho 1000 dân, số người với máy thu hình, thu thanh; số thư viện/1000 dân. Xã hội tăng trưởng hay không dựa vào các chỉ số nói trên.

Đo độ văn hoá:

Phát triển bền vững đòi hỏi phải thay đổi các thói quen và phong cách sống có hại cho môi trường chung của trái đất như các thói quen sinh nhiều con ở các nước đang phát triển theo triết lý: Trời sinh voi, trời trời sinh cỏ; thói quen tiêu dùng lãng phí của công dân các nước công nghiệp phát triển. Phát triển bền vững đòi hỏi phải thiết lập các tập tục tiến bộ mới thay cho các tập tục lạc hậu cũ và xác lập các tập tục phù hợp với điều kiện sống đang thay đổi của con người. Thí dụ, để phù hợp với quá trình đô thị hoá đang diễn ra trên trái đất, con người cần phải thay đổi các thói quen lành mạnh của nền văn minh đô thị.

Độ đo văn hoá của phát triển bền vững còn là “văn hoá xanh”. Văn hoá xanh là nền văn hoá phù hợp với sự phát triển bền vững, đó là toàn bộ các hoạt động văn hoá của con người dựa trên đạo đức thế giới về cuộc sống cộng đồng. Văn hoá xanh thể hiện trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng như nhà ở, giao thông đô thị…, các quan hệ xã hội của con người và thái độ của con người đối với thiên nhiên. Văn hoá xanh thể hiện trong thái độ và hành vi của con người hướng tới sự giảm nghèo đói, nâng cao chất lượng cuộc sống của mình. Ở đây, sự vượt lên nghèo đói không phải bằng bất cứ cách nào mà chỉ bằng các phương thức phù hợp với đạo đức thế giới về cuộc sống cộng đồng. Trong văn hoá xanh có cả thái độ đúng đắn của con người đối với các hiện tượng tiêu cực trong môi trường xã hội như: chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội đang làm mai một cuộc sống tốt đẹp của nền văn minh nhân loại.

Để có được các thay đổi phù hợp với quan điểm về phát triển bền vững, mọi người trên trái đất cần phải thay đổi các quan điểm về đạo đức sống. Trước hết là trách nhiệm của con người đối với thiên nhiên và thế hệ tương lai bao gồm: trách nhiệm sống hoà hợp với thiên nhiên, sự tồn tại bình đẳng của loài người và các dạng sống khác trên trái đất, ý thức tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sống chung của hành tinh.

c. Bền vững về môi trường

Độ đo môi trường của sự phát triển bền vững có thể đánh giá thông qua chất lượng các thành phần môi trường không khí, nước, đất, sinh thái; mức độ duy trì các nguồn tài nguyên không tái tạo; việc khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên không tái tạo; nguồn vốn của xã hội dành cho các hoạt động bảo vệ môi trường; khả năng kiểm soát của chính quyền đối với các hoạt động kinh tế xã hội, tiềm ẩn các tác động tiêu cực đối với môi trường, ý thức bảo vệ môi trường của người dân.

Muốn phát triển bền vững thì trong phát triển phải tính đến yếu tố môi trường. Suy cho cùng thì mỗi chúng ta cần phấn đấu cho một môi trường trong sạch, cho sự phát triển bền vững của cả chúng ta và các thế hệ mai sau.

Môi trường tự nhiên và sản xuất xã hội quan hệ khăng khít, chặt chẽ, tác động lẫn nhau trong thế cân đối thống nhất: Môi trường tự nhiên (bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên) cung cấp nguyên liệu và không gian cho sản xuất xã hội. Sự giàu nghèo của mỗi nước phụ thuộc khá nhiều vào nguồn tài nguyên: Rất nhiều quốc gia phát triển chỉ trên cơ sở khai thác tài nguyên để xuất khẩu đổi lấy ngoại tệ, thiết bị công nghệ hiện đại… Có thể nói, tài nguyên nói riêng và môi trường tự nhiên nói chung (trong đó có cả tài nguyên) có vai trò quyết định đối với sự phát triển bền vững về kinh tế – xã hội (KT-XH) ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương vì:

Thứ nhất, môi trường không những chỉ cung cấp “đầu vào” mà còn chứa đựng “đầu ra” cho các quá trình sản xuất và đời sống.

Hoạt động sản xuất là một quá trình bắt đầu từ việc sử dụng nguyên, nhiên liệu, vật tư, thiết bị máy móc, đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật khác, sức lao động của con người để tạo ra sản phẩm hàng hóa. Những dạng vật chất trên không phải gì khác, mà chính là các yếu tố môi trường.

Các hoạt động sống cũng vậy, con người ta cũng cần có không khí để thở, cần có nhà để ở, cần có phương tiện để đi lại, cần có chỗ vui chơi giải trí, học tập nâng cao hiểu biết,… Những cái đó không gì khác là các yếu tố môi trường.

Như vậy, chính các yếu tố môi trường (yếu tố vật chất kể trên – kể cả sức lao động) là “đầu vào” của quá trình sản xuất và các hoạt động sống của con người. Hay nói cách khác: môi trường là “đầu vào” của sản xuất và đời sống. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng, môi trường tự nhiên cũng có thể là nơi gây ra nhiều thảm họa cho con người (thiên tai) và các thảm họa này sẽ tăng lên nếu con người gia tăng các hoạt động mang tính tàn phá môi trường, gây mất cân bằng tự nhiên.

Ngược lại, môi trường tự nhiên cũng lại là nơi chứa đựng, đồng hóa “đầu ra” các chất thải của các quá trình hoạt động sản xuất và đời sống. Quá trình sản xuất thải ra môi trường rất nhiều chất thải (cả khí thải, nước thải, chất thải rắn). Trong các chất thải này có thể có rất nhiều loại độc hại làm ô nhiễm, suy thoái, hoặc gây ra các sự cố về môi trường. Quá trình sinh hoạt, tiêu dùng của xã hội loài người cũng thải ra môi trường rất nhiều chất thải. Những chất thải này nếu không được xử lý tốt cũng sẽ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Vấn đề ở đây là phải làm thế nào để hạn chế được nhiều nhất các chất thải, đặc biệt là chất thải gây ô nhiễm, tác động tiêu cực đối với môi trường.

Thứ hai, môi trường liên quan đến tính ổn định và bền vững của sự phát triển KT-XH.

Phát triển KT-XH là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân cũng như của cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ chặt chẽ: Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.

Trong hệ thống KT-XH, hàng hóa được di chuyển từ sản xuất đến lưu thông, phân phối và tiêu dùng cùng với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm, chất thải. Các thành phần đó luôn luôn tương tác với các thành phần tự nhiên và xã hội của hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó.

Tác động của con người đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho quá trình cải tạo đó, nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo.

Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển KT-XH thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên – đối tượng của sự phát triển KT-XH hoặc gây ra các thảm họa, thiên tai đối với các hoạt động KT-XH trong khu vực.

Ở các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế khác nhau có các xu hướng gây ô nhiễm môi truờng khác nhau. Ví dụ:

– Ô nhiễm do dư thừa: 20% dân số thế giới ở các nước giàu hiện sử dụng 80% tài nguyên và năng lương của loài người. Sản xuất công nghiệp phát triển mạnh, hoạt động của quá nhiều các phương tiện giao thông vận tải đã tạo ra một lượng lớn chất thải độc hại vào môi trường (đặc biệt là khí thải). Hiện nay, việc có được mua bán hay không quyền phát thải khí thải giữa các nước đang là đề tài tranh luận chưa ngã ngũ trong các hội nghị thượng đỉnh về môi trường, các nước giàu vẫn chưa thực sự tự giác chia sẻ tài lực với các nước nghèo để giải quyết những vấn đề có liên quan tới môi trường.

– Ô nhiễm do nghèo đói: Mặc dù chiếm tới 80% dân số thế giới, song chỉ sử dụng 20% tài nguyên và năng lượng của thế giới, nhưng những người nghèo khổ ở các nước nghèo chỉ có con đường duy nhất là khai thác tài nguyên thiên nhiên (rừng, khoáng sản, đất đai,…) mà không có khả năng hoàn phục. Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) về môi trường họp vào tháng 1/2002 tại Trung Quốc đã cho rằng nghèo đói là thách thức lớn nhất đối với công tác bảo vệ môi trường (BVMT) hiện nay. Do vậy, để giải quyết vấn đề môi trường, trước hết các nước giàu phải có trách nhiệm giúp đỡ các nước nghèo giải quyết nạn nghèo đói.

Như vậy, để phát triển, dù là giàu có hay nghèo đói đều tạo ra khả năng gây ô nhiễm môi trường. Vấn đề ở đây là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển và BVMT. Để phát triển bền vững không được khai thác quá mức dẫn tới hủy hoại tài nguyên, môi trường; thực hiện các giải pháp sản xuất sạch, phát triển sản xuất đi đôi với các giải pháp xử lý môi trường; bảo tồn các nguồn gen động vật, thực vật; bảo tồn đa dạng sinh học; không ngừng nâng cao nhận thức của nhân dân về BVMT,…

Thứ ba, môi trường có liên quan tới tương lai của đất nước, dân tộc.

Như trên đã nói, BVMT chính là để giúp cho sự phát triển kinh tế cũng như xã hội được bền vững. KT-XH phát triển giúp chúng ta có đủ điều kiện để đảm bảo an ninh quốc phòng, giữ vững độc lập chủ quyền của dân tộc. Điều đó lại tạo điều kiện ổn định chính trị xã hội để KT-XH phát triển. BVMT là việc làm không chỉ có ý nghĩa hiện tại, mà quan trọng hơn, cao cả hơn là nó có ý nghĩa cho tương lai. Nếu một sự phát triển có mang lại những lợi ích kinh tế trước mắt mà khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi trường, làm cho các thế hệ sau không còn điều kiện để phát triển mọi mặt (cả về kinh tế, xã hội, thể chất, trí tuệ con người…), thì sự phát triển đó phỏng có ích gì! Nếu hôm nay thế hệ chúng ta không quan tâm tới, không làm tốt công tác bảo vệ môi trường, làm cho môi trường bị hủy hoại thì trong tương lai, con cháu chúng ta chắc chắn sẽ phải gánh chịu những hậu quả tồi tệ.

Tuy nhiên, trên thực tế cũng phải thừa nhận rằng còn nhiều điều bất cập trong công tác bảo vệ môi trường mà chúng ta chưa làm được: Môi trường vẫn từng ngày, từng giờ bị chính các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của chúng ta làm cho ô nhiễm nghiêm trọng hơn, sự phát triển bền vững vẫn đứng trước những thách thức lớn lao. Điều này đòi hỏi mọi người, mọi nhà, mọi địa phương trong cả nước phải thường xuyên cùng nhau nỗ lực giải quyết, thực hiện nghiêm chỉnh Luật BVMT. Có như vậy chúng ta mới có thể hy vọng vào một tương lai với môi trường sống ngày càng trong lành hơn.

Xã hội phát triển bền vững là xã hội mà con người có cuộc sống chất lượng cao trên nền tảng sinh thái bền vững.

Tính bền vững về môi trường có thể được thể hiện qua các tiêu chí như:

Môi trường bền vững là một môi trường luôn luôn thay đổi nhưng vẫn làm tròn 3 chức năng:

  • Môi trường là không gian sinh tồn của con người
  • Môi trường là nơi cung cấp nguồn tài nguyên, kể cả vật liệu, năng lượng thông tin cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người.
  • Môi trường là nơi chứa đựng phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình.

Bền vững về không gian sống của con người tại một khu vực lãnh thổ nhất định thể hiện ở mật độ dân số, mật độ hoạt động của con người không vượt quá khả năng chịu tải của khu vực đó.

Chất lượng yếu tố môi trường sau sử dụng ≥ tiêu chuẩn quy định.

Sự bền vững về tài nguyên thiên nhiên thể hiện ở chỗ tài nguyên tái tạo được nước, một số dạng năng lượng, tài nguyên nguyên sinh vật được sử dụng trong phạm vi khôi phục lại được một số lượng và chất lượng bằng các phương pháp tự nhiên hoặc nhân tạo .

+ Lượng sử dụng ≤ lượng khôi phục hoặc tái tạo được.

Đối với tài nguyên không thể tái tạo được (khoáng sản, nguồn gen quí hiếm) lượng sử dụng phải ít hơn hoặc bằng lượng tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo có thể khai thác hoặc được dùng để thay thế.

+ Lượng sử dụng ≤lượng thay thế

Sự bền vững theo chức năng thứ ba của môi trường là lượng phế thải tạo nên phải nhỏ hơn khả năng tái tạo sử dụng, tái chế, phân hủy tự nhiên.

+ Lượng phế thải <hoặc = khả năng sử dụng, tái chế, phân hủy thiên nhiên hoặc ít nhất lượng phế thải <hoặc = khả năng tái sử dụng phân hủy, chôn lấp.

Những điều nêu trên về 3 chức năng môi trường là điều kiên cần và đủ để đảm bảo sự phát triển bền vững về mặt môi trường của xã hội.

3. Các nguyên tắc xây dựng xã hội phát triển bền vững

Trong cuốn “Cứu lấy Trái đất” xuất bản năm 1991, 200 nhà khoa học hàng đầu tập hợp trong 3 tổ chức là Chương trình môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP), Quỹ Hoang dã Thế giới (WWF) và Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) đã nêu lên hệ thống 9 nguyên tắc cơ bản để xây dựng một xã hội phát triển bền vững. Đó là:

  • Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng;
  • Nâng cao chất lượng cuộc sống của con người;
  • Bảo tồn sự sống và sự đa dạng sinh học của Trái đất;
  • Hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm các nguồn tài nguyên không tái tạo;
  • Giữ vững trong khả năng chịu đựng được của Trái đất;
  • Thay đổi thái độ và hành vi của con người;
  • Để cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình;
  • Xây dựng một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho bảo vệ và phát triển;
  • Xây dựng một khối liên minh toàn cầu trong bảo vệ môi trường.

Có khá nhiều sơ đồ biểu diễn nội dung phát triển bền vững đã được nghiên cứu, dưới đây là 3 sơ đồ mô hình phát triển bền vững được đề cập nhiều nhất hiện nay.

Hình 1.1. Mô hình nội dung của phát triển bền vững:

Các mô hình PTBV cụ thể trong một số lĩnh vực hoạt động sản xuất của xã hội và địa bàn sinh sống của cộng đồng cũng đã được thực hiện và được phân theo các loại sau:

  • PTBV theo ngành: công nghiệp, nông nghiệp
  • PTBV theo cộng đồng: miền núi, đồng bằng, đô thị, duyên hải
  • PTBV theo lãnh thổ: thành phố, lưu vực sông, vùng ven biển
  • Phát triển không bền vững: các mô hình không bền vững
Những nguyên tắc chính phát triển bền vững ở Việt Nam:Nguyên tắc 1: Con người là trung tâm của phát triển bền vững

Nguyên tắc 2: Phát triển kinh tế là trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới.

Nguyên tắc 3: Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường là một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển.

Nguyên tắc 4: Quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai.

Nguyên tắc 5: Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước.

Nguyên tắc 6: Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và địa phương, của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân.

Nguyên tắc 7: Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, để phát triển bền vững đất nước.

Nguyên tắc 8: Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường với bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.

(Nguồn tài liệu: Nguyễn Nam Phương, Giáo trình Dân số và phát triển)

5/5 - (1 bình chọn)

Có thể bạn quan tâm

123123

Lytuong.net – Contact: admin@lytuong.net