Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố. Có thể phân chia kết cấu đó thành nhiều cấp độ khác nhau: Tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí … và tự ý thức, tiềm thức và vô thức.
Tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí v…
Cấp độ này nghiên cứu ý thức thông qua các tính chất, trình độ phản ánh của nó về thế giới khách quan được thể hiện ở tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong tính hiện thực của hoạt động tinh thần con người.
Tri thức là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới, là sự phản ánh thế giới khách quan. Tri thức bao gồm tri thức về tự nhiên, xã hội, con người … dưới nhiều hình thức và cấp độ khác nhau như tri thức cảm tính – tri thức lý tính; tri thức kinh nghiệm – tri thức lý luận; tri thức tiền khoa học – tri thức khoa học. Chẳng hạn, tri thức kinh nghiệm là tri thức nảy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn – từ lao động sản xuất, đấu tranh xã hội hoặc thí nghiệm khoa học. Đó là kết quả từ những quan sát hàng ngày trong cuộc sống và trong lao động v.v… hoặc từ những thí nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm giới hạn ở lĩnh vực các sự kiện, sự miêu tả, phân loại các dữ kiện thu nhận được từ quan sát và thí nghiệm về các khía cạnh cụ thể khác nhau của hiện thực. Ngược lại, tri thức lý luận là tri thức được hình thành từ tri thức kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm, mà nó có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm bởi tính vuợt trước của nó trong sự phát triển của khoa học. Tri thức lý luận là tri thức mang tính hệ thống, khái quát, trừu tượng hóa phản ánh tính bản chất và các quy luật của hiện thực.
Sự phản ánh thế giới khách quan của ý thức con người không chỉ đem lại cho con người những tri thức mà còn đem lại tình cảm, niềm tin, ý chí của con người đối với thế giới. Trong đó, tình cảm là những rung động cảm xúc khi có tác sự tác động trực tiếp của hiện thực khách quan vào các giác quan của con người. Tình cảm tham gia một cách hữu cơ vào tất cả các hình thức hoạt động tinh thần, đồng thời làm giảm nhẹ, hoặc tác động tích cực, hay làm khó khăn thêm cho công tác học tập, lao động và sáng tạo. Chính vì vậy, tình cảm tham gia trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động người. Tri thức có biến thành tình cảm mãnh liệt mới sâu sắc để tạo thành niềm tin, ý chí của con người hay không thì phải thông qua tình cảm mới trở thành hành động thực tế, mới phát huy được sức mạnh của con người.
Tự ý thức, tiềm thức và vô thức
Cấp độ này nghiên cứu ý thức theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người hay thường gọi là tầng sâu của ý thức được thể hiện ở tự ý thức, tiềm thức và vô thức trong tính hiện thực của hoạt động tinh thần con người.
Tự ý thức là một yếu tố quan trọng của ý thức. Khi phản ánh hiện thực khách quan, con người tự phân biệt mình, đối lập mình với thế giới và nhận thức bản thân như một thực thể hoạt động có cảm giác, có tư duy, có hành vi đạo đức và vị trí xã hội. Tự ý thức là quá trình nhận thức về bản thân để có thể tự khẳng định, tự điều chỉnh hành vi hoạt động của cá nhân. Tự ý thức không chỉ thể hiện thông qua giao tiếp mà còn thể hiện qua gía trị văn hóa của xã hội. Cho nên, tự ý thức không chỉ là tự ý thức cá nhân mà còn ý thức của một giai cấp, một tập đoàn xã hội hoặc của xã hội
Tiềm thức là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể, song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm soát của chủ thể. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có (bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp nắm bắt chúng) nhưng gần như cái bản năng, kỹ năng nằm trong tầng sâu ý thức dưới dạng tiềm tàng và có thể gây ra các hoạt động tâm lý – nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp. Trong tư duy khoa học, tiềm thức chủ yếu gắn liền với tư duy chính xác, góp phần giảm sự quá tải của đầu óc trong việc xử lý một khối lượng lớn các tài liệu, dữ kiện với các hoạt động thường lặp đi, lặp lại nhiều lần v.v…
Vô thức là một hiện tượng tâm lý có liên quan những hoạt động xảy ra ở ngoài phạm vi của lý trí hoặc chưa được con người ý thức đến. Vô thức thể hiện thông qua những hành vi mà con người chưa ý thức được. Hoặc những hành vi trước kia đã ý thức được thông qua sự lặp lại nhiều lần trở thành thói quen tới mức xảy ra tự phát không có sự chỉ đạo của ý thức. Nói một cách khác, vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tham gia của lý trí. Vô thức biểu hiện nhiều hiện tượng như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác v.v… Những hiện tượng vô thức này có vai trò và chức năng riêng nhưng chúng đều có khả năng giải toả các ức chế thần kinh, góp phần quan trọng lập lại tính cân bằng trong hoạt động tinh thần để ngăn chặn hoặc giảm đi những ham muốn bản năng của con người không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy tắc của đời sống cộng đồng.
Vô thức giúp cho con người tránh được những tình trạng căng thẳng thần kinh không cần thiết bởi một lý do nào đó và nhờ nó mà những chuẩn mực con người đặt ra được giải quyết một cách tự nhiên mà không có sự khiên cưỡng thái hoá.