Đạo gia là một trào lưu triết học lớn trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa cổ đại. Nó ảnh hưởng sâu sắc không chỉ đến tư tưởng mà cả truyền thống văn hóa của hầu hết các dân tộc châu Á. Sự hình thành và phát triển của trường phái triết học Đạo gia gắn liền với tên tuổi của nhiều nhà triết học lớn như Lão Tử, Dương Chu và Trang Chu.
Đạo gia chia ra nhiều trường phái, tư tưởng của họ phong phú và đa dạng nhưng đều thống nhất với nhau ở một điểm là bàn về lợi ích cao nhất của cá nhân là gì? Làm thế nào để đạt tới lợi ích cho cá nhân? Triết học Đạo gia nói chung đều chủ trương “vị ngã”.
Lão Tử, Trang Tử con người và tác phẩm
Lão Tử người nước Sở (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Ông tên là Lý Đan, từng làm quan giữ kho. Ông sinh năm 570 và mất khoảng năm 490 trước công nguyên. Tác phẩm của Lão Tử rất ít, chưa đầy 5 nghìn chữ, người sau gọi là Ngũ Thiên tự cũng có tên gọi là Đạo đức kinh. Đạo đức kinh là tác phẩm viết theo lối văn vần, với cách trình bày ngắn gọn, cô đọng, hàm súc bằng nhiều biểu tượng, hình ảnh, châm ngôn, ẩn dụ, tư tưởng triết học của Lão Tử mang tính chất biến ảo, gợi mở mà thâm trầm sâu sắc.
Trang Tử tên Chu người Mông ấp, nước Tống (khoảng 365-290 trước công nguyên). Trang Tử xuất thân từ thành phần nghèo khổ, không ra làm quan. Tác phẩm của ông có “Trang Tử”. Lão Tử và Trang Tử là hai triết gia thời kỳ cổ đại Trung Hoa. Tuy hai triết gia có những điểm dị biệt nhưng nói chung có nhiều điểm tương đồng cho nên người ta thường gọi chung là học thuyết Lão -Trang.
Những tư tưởng triết học Lão – Trang
Quan niệm về Đạo
Quan niệm về Đạo của Lão – Trang gần như quan niệm về logos của Hêracơlít ở Hy Lạp cổ đại. Theo Lão-Trang thì khái niệm Đạo cũng chỉ là cách gọi không chính xác. Bởi vì đã là đạo thì vô cùng huyền bí, với nhiều ý nghĩa và tính chất khác nhau: “Thiên đạo”, “Nhân đạo”,” Đạo đức” (những khái niệm này đã xuất hiện trước thời Lão – Trang), nhưng khái niệm “Đạo” của Lão – Trang có nội sung sâu sắc hơn, hoàn chỉnh hơn.
Lão Tử nói: “Đạo mà có thể nói được thì không phải là Đạo tồn tại vĩnh viễn. Tên mà có thể đặt được thì không phải tên vĩnh viễn”. Trang Tử nói:” Đạo chẳng có thể nghe được, nghe được không còn là nó nữa. Đạo chẳng có thể thấy được, thấy được không còn phải là nó nữa. Đạo chẳng có thể nói được, nói được không phải là nó nữa”. Tuy vậy, cái mà Lão – Trang nói vẫn mệnh danh là Đạo. Có nghĩa là trong sự biến dịch của vạn vật phải nắm lấy cái bất biến (quy luật). Có nghĩa là quy luật mang tính phổ biến. Đạo không những vĩnh viễn, không mất đi mà còn có trước trời đất nữa.
Nội dung cơ bản quy định trong khái niệm Đạo của Lão – Trang là tự nhiên, tự nhiên là khách thể khác với cái chủ thể con người. Tự nhiên có quy luật của nó (Đạo) con người chỉ có thể theo nó chứ không thể ngược lại. Tuy nhiên, Lão – Trang đã tuyệt đối hóa sự phục tùng của con người đối với tự nhiên.
Lão Tử cho rằng bản chất của Đạo thể hiện hai tính chất: Tự nhiên thuần phác và trống không. Lão Tử nói: “Đạo pháp tự nhiên”, tính tự nhiên của Đạo được hiểu như tính khách quan, vốn như thế không phụ thuộc vào ý thức con người, nhưng nó không như khái niệm tồn tại khách quan trong triết học phương Tây: Bởi Đạo chứa đựng và hòa đồng cả cái tồn tại và không tồn tại, cả cái tĩnh tại và cái biến đổi, cái tuyệt đối và tương đối. Nó là tự nhiên nhưng không phải tồn tại định tính, hình thái mà là một trạng thái vĩnh cửu, chứa đựng tất cả. Thần linh, thượng đế cũng từ Đạo mà ra, được linh thiêng cũng từ đó mà có.
Nếu chỉ dừng lại ở mặt “Thể” của Đạo, chúng ta sẽ không phân biệt được nó với phạm trù “Chân không” của Phật giáo. Sự khác biệt được biểu hiện ở mặt dụng của Đạo. “Không tên là gốc của trời đất, có tên là mẹ của vạn vật” (Đạo Đức kinh, Thượng thiên). Cái không tên là cái Thể (bản chất) của Đạo, nó chỉ trạng thái ban đầu, nguyên thủy của Đạo khi chưa vận động, chưa biểu lộ tính chất. Còn cái có tên, chính là dụng (công dụng năng lực) của Đạo ấy. Dụng của Đạo là trạng thái vận động, biến đổi với năng lực sản sinh và huyền đồng vạn vật, v.v…
Chủ nghĩa tương đối của Đạo gia
Đạo gia không thừa nhận chân lý khách quan. Không có cái gì làm tiêu chuẩn đúng sai cho nhận thức của con người. Chủ nghĩa tương đối của Đạo gia xuất phát từ cơ sở cho rằng Đạo không thể biết được. Đã không thể biết được thì làm gì có tiêu chuẩn để xác định cái biết đúng hay sai. Hơn nữa, theo Đạo gia đời người có hạn, cho nên con người làm sao có thể chạy theo cái cần biết được. Từ chỗ cho rằng Đạo không thể biết đến chủ nghĩa tương đối, đến chủ nghĩa vô vi là lôgíc tất yếu của Đạo gia. Đạo gia triệt tiêu mọi nỗ lực chủ quan của con người.