Trang chủ Địa lý kinh tế và xã hội Mối quan hệ giữa dân số và phát triển

Mối quan hệ giữa dân số và phát triển

by Ngo Thinh
Published: Last Updated on 1,1K views

Dân số tác động toàn diện đến phát triển. Điều này có nghĩa là dân số tác động đến tất cả các yếu tố thành phần của qúa trình phát triển, như: kinh tế, xã hội và môi trường. Ngược lại, kết quả của quá trình phát triển cũng nâng cao chất lượng và phát triển con người toàn diện sẽ tác động trở lại đối với các quá trình dân số như: sinh, chết, di dân. Mối quan hệ tác động qua lại, chuyển hoá nhân quả giữa mức sinh và mức sống nói riêng, trình độ phát triển và dân số nói chung có thể biểu diễn qua sơ đồ sau:

Để hiểu được bản chất của mối quan hệ này, chúng ta có thể phân biệt giữa quá trình và kết quả của phát triển KT-XH và của biến động dân số. Từ các quá trình phát triển bao gồm: tiêu dùng hàng hoá dịch vụ, tiết kiệm, đầu tư, sử dụng các nguồn lực sản suất và chi tiêu công sẽ đưa đến các kết quả của phát triển và tăng trưởng kinh tế, việc làm, tình hình giáo dục, sức khỏe, dinh dưỡng và chất lượng môi trường. Sự tác động giữa các quá trình và kết quả của phát triển được chỉ bằng mũi tên A.

Kết quả của phát triển KT-XH được xác định bằng tình trạng sức khoẻ, dinh dưỡng, trình độ giáo dục, việc làm, thu nhập, chất lượng môi trường. Tương tự từ các quá trình dân số bao gồm sinh, chết và di cư dẫn tới các kết quả dân số được thể hiện bằng quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số. Hướng tác động này được chỉ bằng mũi tên B. Sử dụng sơ đồ khung này, chúng ta cần phải nhìn nhận kết quả của quá trình kinh tế xã hội ảnh hưởng đến quá trình dân số (được chỉ bằng mũi tên C); ngược lại, kết quả của quá trình dân số tác động đến quá trình phát triển kinh tế- xã hội (được chỉ bằng mũi tên D).

Như vậy, ngoài việc các quá trình dân số và phát triển có thể tác động lẫn nhau thông qua các kết quả dân số và phát triển thì chúng cũng có thể tác động trực tiếp với nhau (mũi tên E)

1/ Phát triển tác động trực tiếp đến mức sinh, mức chết và di cư, thông qua đó làm thay đổi quy mô và cơ cấu dân số.

2/ Ngược lại, quy mô và cơ cấu dân số tác động đến các quá trình phát triển góp phần đạt được các mục tiêu để phát triển kinh tế xã hội bền vững

3/ Có thể xuất phát từ bất kỳ khối nào trong sơ đồ để bắt đầu phân tích, do tính chất “nhân biến thành quả và quả biến thành nhân”.

Điều đó cũng có nghĩa là bất cứ một chính sách kinh tế- xã hội nào được áp dụng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội cũng ảnh hưởng đến toàn bộ các yếu tố còn lại trong sơ đồ và ngược lại, khi một chính sách dân số được áp dụng tác động đến quá trình dân số cũng sẽ ảnh hưởng đến các yếu tố khác của sơ đồ này.

1. Tác động của dân số đến phát triển

a. Tác động của dân số đến kinh tế

Có thể nhận thấy tác động của dân số đến kinh tế trên cả hai tầm vĩ mô và vi mô. Dân số vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu dùng. Bởi vậy quy mô, cơ cấu dân số có ảnh hưởng lớn tới sự tăng trưởng kinh tế thông qua tác động đến quy mô, cơ cấu sản xuất, tiêu dùng và tích lũy của xã hội.

Nhìn chung, sự gia tăng dân số ảnh hưởng đến rất nhiều khía cạnh trong lĩnh vực kinh tế qua nhiều yếu tố khác nhau.

Các yếu tố sản xuất:

Như chúng ta biết, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng GNP (tăng khối lượng tổng sản phẩm quốc dân-kí hiệu:Q) được quyết định bởi năng lực sản xuất và khả năng hiện thực hóa năng lực đó. Đến lượt nó, năng lực sản xuất lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố được mô hình hoá dưới dạng hàm sản xuất như sau:

Hàm sản xuất Y = f(R, K, L, T)

Trong đó:

  • Y: sản lượng
  • K: vốn sản xuất
  • L: lao động
  • R: nguồn tài nguyên thiên nhiên
  • T: khoa học công nghệ

Như vậy, thông qua tác động của sự thay đổi về quy mô, cơ cấu dân số tác động đến các yếu tố sản xuất sẽ cho ta thấy ảnh hưởng của dân số tăng nhanh đến sản lượng nền kinh tế.

Tác động tới nguồn lao động:

Yếu tố dân số tác động tới việc xác định cung về lao động bao gồm cả quy mô, cơ cấu và chất lượng từ đó tác động tới năng suất lao động, sản phẩm bình quân đầu người ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Cụ thể:

– Về quy mô, cơ cấu: dân số tác động thông qua “dân số trong độ tuổi lao động” và “tỷ lệ tham gia lực lượng lao động”.

+ Dân số trong độ tuổi lao động thông thường là từ 15-59 tuổi. Dân số tăng lên, sau một thời gian nhất định, số người trong độ tuổi này cũng tăng lên, làm cho lực lượng lao động cũng vì thế mà lớn lên.

Chia 2 vế của hàm sản xuất cho L, ta có:

Khi dân số tăng lên, nghĩa là L tăng lên, với các yếu tố khác không đổi sẽ làm cho Y/L giảm xuống. Điều này làm cho tổng sản phẩm tăng lên nhưng sản phẩm bình quân đầu người, thậm chí là bình quân cho một lao động lại giảm đi.

+ Tuy nhiên, không phải mọi người trong độ tuổi lao động đều tham gia hoạt động kinh tế và cũng không phải cứ ai ngoài độ tuổi lao động thì không tham gia hoạt động kinh tế vì thế ta xét thêm “tỷ lệ tham gia lực lượng lao động” đặc trưng theo giới và tuổi, có khái niệm “dân số hoạt động kinh tế” và “dân số không hoạt động kinh tế”. Với mỗi mức dân số hoạt động kinh tế và tỷ lệ theo giới tuổi khác nhau thì tạo ra ảnh hưởng khác nhau tới năng suất và tăng trưởng kinh tế. Cụ thể:

Nếu “dân số làm việc” chủ yếu từ tuổi 19 trở lên- đã qua đào tạo, học tập thì sẽ tạo ra năng suất cao và ngược lại.

Nhưng nhóm tuổi phụ nữ tham gia lực lượng lao động cao nhất cũng là nhóm tuổi có mức sinh cao, phản ánh sự xung đột chức năng sinh sản và chức năng kinh tế thì cũng làm giảm năng suất…

– Về chất lượng: Khi dân số tăng nhanh, các điều kiện sống không được thoả mãn ở mức độ cao, hầu như các nhu cầu chỉ dừng lại ở mức tối thiểu, đảm bảo cho vừa đủ nhu cầu cơ bản của cuộc sống, ảnh hưỏng đến sức khỏe và trình độ học vấn của người lao động. Điều này làm cho chất lượng vốn con người giảm xuống hoặc ở mức thấp đến rất thấp. Do đó, năng suất lao động không cao, khiến cho tổng sản phẩm quốc dân tăng chậm.

Tác động tới vốn, công nghệ, tài nguyên:

* Tác động đến tài nguyên:

Dân số tăng lên đòi hỏi khai thác nhiều tài nguyên hơn để phục vụ cho quá trình sản xuất. Khi lực lượng lao động tăng lên thì tổng sản phẩm sẽ tăng lên nhưng khi dân số tăng lên thì lực lượng lao động cũng tăng với tốc

độ thường cao hơn tốc độ tăng dân số. Một số nguồn tài nguyên như đất đai, mặt nước… lại có hạn. Vì thế, số lao động trên một đơn vị diện tích đất đai tăng lên (R/L giảm). Điều này làm cho tổng sản phẩm tăng lên nhưng sản phẩm bình quân đầu người, thậm chí là bình quân cho một lao động lại giảm đi.

* Tác động đến nguồn vốn:

Quay trở lại với hàm sản xuất, xét trên mối quan hệ giữa lao động và vốn, ta có thể giả sử các yếu tố về khoa học công nghệ và tài nguyên thiên nhiên không đổi (Bỏ qua R và T)

Ta có hàm sản xuất: Y=f(K;L)

Từ đây ta chia hai vế của phương trình cho L ta có

Trong quá trình sản xuất nếu số lao động (L) tăng nhanh hơn nhiều so với vốn vật chất (K) thì lượng vốn đó phải dàn trải ra cho nhiều lao động, dẫn đến tỉ lệ vốn/lao động (K/L) giảm xuống. Tăng trưởng dân số nhanh tác động trực tiếp làm tăng yếu tố lao động L, đồng thời tác động đến quy mô của vốn vật chất K và làm giảm vốn này. Bởi vì, đối với một quốc gia, tăng nhanh dân số thường là do sinh đẻ nhiều. Do đó, số lượng trẻ em trong tổng số dân lớn. Vì vậy, quỹ tiêu dùng lớn và quỹ tích lũy bị thu hẹp, hạn chế quy mô và tốc độ tăng lên của K, dẫn đến tỉ lệ K/L nhỏ và tăng chậm. Như vậy, dân số tăng nhanh tác động đến cả tử và mẫu số của tỷ lệ K/L theo chiều hướng làm giảm tỷ số này và do đó làm giảm sản lượng đầu ra trên mỗi lao động.

* Tác động đến công nghệ:

Có nhiều lập luận rằng quy mô dân số lớn và tăng trưởng nhanh sẽ tạo ra sức ép làm nảy sinh các phát minh khoa học và đẩy nhanh tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng phải có thời gian và cần nguồn vốn đầu tư lớn. Trong khi đó, nguồn vốn đầu tư giảm khi dân số tăng lên, tức là nguồn vốn đầu tư cho khoa học công nghệ cũng giảm xuống, làm cho công nghệ khó phát triển, gây ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế.

* Tác động tới tiêu dùng (C):

Bản thân cung là do cầu quyết định vì thế để có động lực thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinh tế thì phải mở rộng thị trường tiêu dùng, kích thích tiêu dùng, tăng cầu về mọi hàng hóa sản phẩm. Có nhiều yếu tố xác định khối lượng và cơ cấu vật phẩm tiêu dùng, các loại dịch vụ song quy mô, cơ cấu dân số là những yếu tố quan trọng. Vì thế, việc tiêu dùng của dân cư cũng có ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế và biến động dân số sẽ tác động tới sự tăng trưởng kinh tế thông qua yếu tố tiêu dùng thể hiện qua sự phụ thuộc khối lượng tiêu dùng vào quy mô dân số, sự tiêu dùng khác nhau do khác về độ tuổi và giới, nghề nghiệp.

* Tác động tới chi tiêu công cộng: (G)

Nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế thị trường với sự điều tiết, quản lý của nhà nước. Nhà nước sử dụng ngân sách xây dựng cơ sở vật chất, tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế. Song chi tiêu nhà nước (G) không chỉ tiêu dùng cho kinh tế mà còn chi tiêu giải quyết vấn đề xã hội. Thông qua chi tiêu công cộng ta cũng sẽ thấy được phần nào tác động của gia tăng dân số đến tăng trưởng kinh tế do việc phải phân tán nguồn lực nhà nước.

Gia tăng dân số làm cho nhu cầu về nhà ở, đất đai và việc sử dụng các dịch vụ công cộng như: đường sá, trường học, bệnh viện và các hình thức phúc lợi xã hội… tăng lên không ngừng.

* Tác động tới tiết kiệm và đầu tư:

Một nền kinh tế muốn tăng trưởng tốt thì điều không thể thiếu đó là nguồn vốn đầu tư. Nếu giả sử là số tiền đầu tư mới mỗi năm ở VN tương đương với 40% GDP và chỉ số hiệu quả đầu tư ICOR là 4, thì đủ để cho VN giữ được tăng trưởng kinh tế ở mức 10%/năm. Có thể thấy vốn và GDP biến động cùng chiều, khi vốn tăng lên thì GDP cung tăng theo. Hơn thế nữa, tốc độ tăng GDP mạnh hơn tốc độ tăng của vốn. Từ đó có thể nhận thấy tầm quan trọng của vốn đối với tăng trưởng kinh tế.

Vốn đầu tư có thể đến từ nhiều nguồn: tiết kiệm, đi vay hay nhận sự đầu tư trực tiếp từ bên ngoài. Chẳng hạn ở Việt Nam, nguồn vốn chủ yếu lại là từ bên ngoài (ODA, FDI). Nhưng tiết kiệm trong nước vẫn là nguồn cung cấp vốn an toàn cho đầu tư. Có tiết kiệm thì mới có tiền đầu tư (mà không phải vay nợ). Tiết kiệm là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của một nền kinh tế. Dưới hình thức tiết kiệm và tín dụng, có thể tập hợp được những nguồn vốn nhàn rỗi nhỏ lẻ thành những nguồn vốn lớn sử dụng vào việc đầu tư nhằm tạo ra vật chất mới. Tỷ lệ đầu tư cao thì tăng trưởng mới nhanh. Tuy nhiên, tiết kiệm lại chịu sự chi phối khá mạnh của gia tăng và biến đổi cơ cấu dân số. Khi dân số tăng nhanh, tiêu dùng tăng lên làm cho tiết kiệm giảm đi dẫn đến nguồn vốn đầu tư xuất phát từ tiết kiệm sẽ giảm xuống. Tiết kiệm có xu hướng tăng khi tỷ lệ dân số trong tuổi lao động tăng.

Tóm lại đối với các nước nghèo, gia tăng dân số gây ảnh hưởng tiêu cực, bất lợi cho tăng trưởng kinh tế. Kết luận này được chứng minh cụ thể thông qua mối quan hệ:

Ở tầm vi mô, mỗi doanh nghiệp, sản xuất cái gì, với khối lượng bao nhiêu, đương nhiên là phụ thuộc vào số dân và nhu cầu của họ, mà nhu cầu này thay đổi theo độ tuổi và giới tính. Chẳng hạn, khi sản xuất mũ, cần đặt câu hỏi: Sản xuất cho bao nhiêu người? Mũ cho nam hay nữ? Mũ cho ông già hay mũ cho trẻ em? Hay nói khác đi: quy mô, cơ cấu dân số góp phần quan trọng vào việc xác định quy mô, cơ cấu sản xuất. Điều tra mức sống dân cư ở nước ta cho thấy: quy mô gia đình càng nhỏ, mức tiêu dùng và tích luỹ càng lớn.

b. Tác động của dân số đến các vấn đề xã hội

Các biến dân số đóng vai trò chủ yếu trong kế hoạch hoá phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ xã hội để thực hiện mục tiêu cuối cùng của sự phát triển là nâng cao mức sống nhân dân và phát triển bền vững. Một trong những nguồn gốc sâu xa của mối quan hệ DS-PT xuất phát chính từ mối quan hệ giữa nhu cầu các dịch vụ xã hội thiết yếu về ăn, ở, học tập, việc làm, chăm sóc sức khoẻ cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân theo thời gian trong suốt cuộc đời của mình với dân số. Hình 7 cho thấy, các nhu

 

cầu dịch vụ xã hội của mỗi cá nhân (DVXH) là khác nhau theo độ tuổi của họ. Tuy nhiên, con người thường sống trong một gia đình, trong một cộng đồng dân cư trên một lãnh thổ nhất định. Mỗi cộng đồng ấy có quy mô dân số, cơ cấu theo tuổi – giới tính khác nhau, nên có tổng cầu về mỗi loại DVXH khác nhau. Vì vậy, lập kế hoạch phát triển “cung” về DVXH cho mỗi cộng đồng dân cư ở mỗi thời kỳ nhất định phải xuất phát từ “cầu” và nhằm thoả mãn các nhu cầu đó trên những địa bàn cụ thể.

Mô hình trên cho thấy, các nhu cầu DVXH của mỗi cá nhân con người là khác nhau theo thời gian. Vì vậy, lập kế hoạch phát triển “Cung” về DVXH cho mỗi cộng đồng dân cư ở mỗi thời kỳ nhất định phải xuất phát từ “Cầu” và nhằm thoả mãn mọi nhu cầu đó. Điều này đòi hỏi các nhà kế hoạch và hoạch định chính sách phải quan tâm đầy đủ đến các yếu tố dân số, bao gồm cả quá trình dân số (sinh, chết, di dân) và kết quả dân số (quy mô, cơ cấu tuổi/giới tính và phân bố theo không gian) để lập kế hoạch phát triển “Cung” đáp ứng đúng và đầy đủ các nhu cầu của sự phát triển con người trong cộng đồng dân cư ở mỗi lãnh thổ khác nhau.

Việc phân tích hiện trạng và dự báo dân số tương lai là rất quan trọng đối với công tác kế hoạch hoá phát triển, đặc biệt là trong kế hoạch hoá việc an ninh lương thực- thực phẩm, y tế, giáo dục, nhà ở và những dịch vụ xã hội cơ bản khác trong tương lai.

c. Tác động của dân số đến tài nguyên và môi trường

Hoạt động khai thác, sản xuất, tiêu dùng của hàng tỷ người đang làm cạn kiệt dần nguồn tài nguyên, kể cả loại tài nguyên có thể tái tạo và tài nguyên không thể tái tạo. Mặt khác, sản xuất, tiêu dùng đã và đang đưa vào môi trường ngày càng nhiều chất thải độc hại, đe doạ sự sống còn của loài người.

Sự tác động của dân số đến môi trường phụ thuộc vào tổng số dân, mức độ sử dụng tài nguyên thiên nhiên bình quân đầu người và trình độ công nghệ ảnh hưởng đối với môi trường nghĩa là công nghệ càng tiên tiến thì ảnh hưởng đến môi trường càng ít hay càng nhỏ.

Như vậy, các tác động tiêu cực của sự gia tăng tự nhiên của dân số được thể hiện chủ yếu qua quá trình khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, sự thải loại ngày càng lớn các loại chất thải vào môi trường, làm cho môi trường sống bị xuống cấp nhanh chóng. Tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đã và đang diễn ra đe doạ sự sống của dân cư và các hệ sinh thái ở nhiều nơi trên trái đất.

Các tác động tiêu cực của tình trạng gia tăng dân số hiện nay trên thế giới biểu hiện ở các khía cạnh:

+ Sức ép lớn tới tài nguyên thiên nhiên và môi trường trái đất do khai thác quá mức các nguồn tài nguyên phục vụ cho các nhu cầu nhà ở, sản xuất lương thực, thực phẩm, sản xuất công nghiệp v. ..

+ Tạo ra các nguồn thải tập trung vượt quá khả năng tự phân huỷ của môi trường tự nhiên trong các khu vực đô thị, khu sản xuất nông nghiệp, công nghiệp.

+ Sự chênh lệch về tốc độ phát triển dân số giữa các nước công nghiệp hoá và các nước đang phát triển gia tăng, dẫn đến sự nghèo đói ở các nước đang phát triển và sự tiêu phí dư thừa ở các nước công nghiệp hoá. Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa đô thị và nông thôn, giữa các nước phát triển công nghiệp và các nước kém phát triển dẫn đến sự di dân ở mọi hình thức.

+ Sự gia tăng dân số đô thị và sự hình thành các thành phố lớn – siêu đô thị làm cho môi trường khu vực đô thị có nguy cơ bị suy thoái nghiêm trọng. Nguồn cung cấp nước sạch, nhà ở, cây xanh không đáp ứng kịp cho sự phát triển dân cư. Ô nhiễm môi trường không khí, nước tăng lên. Các tệ nạn xã hội và vấn đề quản lý xã hội trong đô thị ngày càng khó khăn.

Chính sự chênh lệch ngày càng lớn mức sống giữa các nước công nghiệp phát triển với các nước đang phát triển giữa đô thị và nông thôn trong từng quốc gia đã dẫn đến tình trạng di dân phổ biến xảy ra dưới nhiều hình thức. Nguồn cung cấp nước sạch, nhà ở, cây xanh… không đáp ứng kịp thời cho sự gia tăng dân số đô thị từ đó ngày càng làm trầm trọng hơn sự ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn đặc biệt là các thành phố lớn ở các nước đang phát triển.

Rõ ràng là dân số có ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và tình trạng kinh tế, xã hội và môi trường của mỗi địa phương, mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới.

2. Sự tác động của phát triển đến dân số

a. Tác động của kinh tế đến dân số

Trước hết, nền sản xuất dựa trên công cụ thủ công sẽ đòi hỏi số lượng lao động nhiều hơn là chất lượng lao động, điều này sẽ dẫn đến việc sinh nhiều con. Tình hình hoàn toàn ngược lại, đối với nền sản xuất dựa trên cơ sở điện khí hoá, tự động hoá và tri thức.

Sự phát hiện, sản xuất ra viên uống tránh thai và vắc-xin làm cho cả mức sinh và mức chết đều giảm xuống. Công nghiệp hoá, đô thị hoá đã lôi cuốn dòng người từ nông thôn đổ ra đô thị. Rõ ràng, mức sinh, mức chết và di cư (quá trình tạo nên sự biến đổi quy mô và cấu trúc tuổi – giới tính) phụ thuộc chặt chẽ vào trình độ phát triển của khoa học, công nghệ nói riêng và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nói chung.

Nhưng tái sản xuất ra con người không chỉ phụ thuộc tương hỗ với khu vực sản xuất đồ vật-hoạt động cốt lõi của nền kinh tế. Ở tầm rộng lớn hơn, nó liên quan tới tất cả các yếu tố khác của quá trình phát triển: Những tiến bộ về mặt xã hội, trong đó có hệ thống y tế, trình độ giáo dục, sự bình đẳng nam nữ và sự bền vững về môi trường. Thật vậy, kết hôn, hạn chế sinh đẻ, phòng, chống lại bệnh tật và cái chết,… đều là hoạt động có ý thức, cần đến tri thức và là những hoạt động riêng có của loài người. Vì vậy, bình đẳng nam nữ, giáo dục, khoa học,… (tức là các yếu tố của phát triển) càng cao, tri thức con người sẽ càng rộng, tư duy của con người càng hợp lý, thì tác động càng mạnh đến các quá trình dân số nói trên.

Các đặc trưng dân số của mỗi cá nhân như: tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, số con… và các yếu tố phát triển: văn hoá, nghề nghiệp, thu nhập, nhóm xã hội… cùng tồn tại trong một con người, trong một cơ sở vật chất chung, nên chúng có mối liên hệ trực tiếp, chặt chẽ.

Sự tác động của phát triển đến dân số lớn đến mức, người ta đã tin rằng: “Phát triển là viên tránh thai tốt nhất” và “các vấn đề dân số sẽ tự được giải quyết khi phát triển kinh tế-xã hội tăng lên”(*).

(*) Tăng trưởng dân số và phát triển kinh tế. Báo cáo trong Hội nghị tư vấn của các nhà kinh tế do UNFPA nhóm họp ngày 28-29/9/1992 tại Nưu-ước, Hoa Kỳ

b. Tác động của xã hội đến dân số

Tác động của giáo dục đến dân số

Trong quá trình phát triển, các yếu tố của quá trình dân số chịu ảnh hưởng rất mạnh của giáo dục. Giáo dục tác động đến quá trình dân số chủ yếu thông qua các yếu tố là: kết hôn, sinh, chết và di dân. Tuy nhiên tác động không mang tính tức thời mà phải trải qua một thời kì mới được kiểm nghiệm.

Khi giáo dục và đào tạo được mở rộng, thanh niên do bận học sẽ kết hôn muộn hơn. Giáo dục và đào tạo nâng cao năng lực của con người, tạo cơ hội lớn cho họ có việc làm thu nhập cao và giao lưu xã hội rộng rãi, do đó chi phí cơ hội cho việc sinh đẻ ngày càng trở nên lớn hơn. Mặt khác, khi trình độ học vấn cao hơn, con người ta sẽ biết phân tích chi phí, lợi ích của việc sinh con, phòng chống bệnh, hiểu được nội dung giáo dục, truyền thông về vấn đề sức khoẻ từ đó họ có hành vi hợp lý hơn theo hướng sinh đẻ ít hơn về số lượng nhưng nâng cao về chất lượng, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ tốt hơn, tuổi thọ cao hơn.

Tác động của y tế đến dân số

Với những thành tựu to lớn của khoa học nói chung và y học nói riêng, ngày nay con người đã có phương pháp và phương tiện điều chỉnh hành vi sinh đẻ, đấu tranh chống lại bệnh tật, giảm bớt mức chết, kéo dài tuổi thọ. Khoa học kĩ thuật đặc biệt là y tế đang can thiệp trực tiếp vào toàn bộ quá trình tái sản xuất dân số, giúp cho quá trình này chuyển nhanh tới giai đoạn cân bằng hợp lý. Sự phát hiện sản xuất nhiều phương tiện tránh thai, giá rẻ, dễ phân phối, việc điều chế ra vắc xin, kháng sinh và nhiều loại thuốc và các dịch vụ y tế có chất lượng cao đã làm cho cả mức sinh, mức chết đều giảm nhanh.

Có thể nói trong việc hạn chế mức sinh, y tế đóng vai trò trực tiếp và quyết định cuối cùng. Bởi vì mọi giải pháp kinh tế- xã hội, giáo dục- tuyên truyền, hành chính – pháp luật mới chỉ có tác động đến ý thức, chỉ có y tế mới hỗ trợ trực tiếp việc hạn chế sinh đẻ. Nếu sự tác động của ngành y tế tới mức sinh chỉ giới hạn đối với những người trong độ tuổi sinh đẻ thì việc tác động làm giảm mức chết liên quan đến mọi người, mọi lứa tuổi. Ngày nay, trẻ em đã được tiêm phòng các bệnh như: sởi, lao, bạch hầu, ho gà, uốn ván. Nhờ vậy, mức chết đã giảm nhiều, đặc biệt với trẻ em dưới 5 tuổi. Đối với người lớn, y tế đã chữa được nhiều bệnh gây tử vong cao trong quá khứ như lao, sốt rét, uốn ván… Thêm vào đó, công tác chăm sóc sức khỏe cho người già cũng được đẩy mạnh làm giảm mức chết của nhóm tuổi này đồng thời làm tăng tuổi thọ trung bình của dân số.

c. Tác động môi trường đến dân số

Môi trường bao quanh con người và những thứ con người cần đều lấy từ môi trường: thức ăn, nước uống, không khí để thở… Chính vì vậy, môi trường ảnh hưởng rất lớn đến con người, cụ thể là sức khoẻ, tuổi thọ, khả năng sinh đẻ…

Trong những thập kỷ gần đây, yếu tố môi trường ngày càng biến động theo xu hướng bất lợi cho sức khỏe con người và ảnh hưởng đến 40% bệnh tật của con người ngày nay. Những nơi có cuộc sống nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển thì nguồn nước sạch và vệ sinh môi trường kém, thực phẩm bị ô nhiễm do vi sinh vật và chất lượng không đảm bảo, rác thải không được quản lý, ô nhiễm không khí, điều kiện ăn ở thiếu thốn… thì dịch bệnh dễ phát sinh đã tác động xấu đến sức khỏe con người. Cùng với sự ô nhiễm đó thì các bệnh liên quan đến khả năng sinh sản ngày càng tăng, số lượng người vô sinh ở cả nam và nữ đều gia tăng ảnh hưởng lớn đến mức sinh, các bà mẹ mang thai cũng là đối tượng dễ bị bệnh do ô nhiễm môi trường và sau đó, chuyển bệnh cho đứa con sắp chào đời (truyền qua nhau thai).

Môi trường không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến tỉ lệ sinh mà còn tác động lên cả tỉ lệ tử vong. Theo Tiến sĩ Trần Đắc Phu, Phó cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) “Cả 26 bệnh truyền nhiễm trong cộng đồng đều liên quan đến ô nhiễm môi trường”. Do nảy sinh nhiều ô nhiễm nên một số loại bệnh liên quan như nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính, bệnh hô hấp mãn tính, tim mạch, ung thư khá phức tạp, tăng khá nhanh từ khu vực đô thị đông dân đến các vùng núi cao nghèo. Tình hình mắc bệnh này càng tăng và phức tạp thì tỉ lệ tử theo đó mà tăng lên.

Đối với những khu vực có khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, điều kiện tự nhiên thuận lợi cũng thu hút đông dân cư. Nhu cầu chuyển cư của con người cũng thường hướng về những khu vực có đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa, mát mẻ, gần nguồn nước, không khí trong lành, ít xảy ra thiên tai… Môi trường thuận lợi giúp cho việc thúc đẩy phát triển kinh tế văn hóa xã hội. Không khí mát mẻ, trong lành, địa hình bằng phẳng thuận lợi cho giao thông vận chuyển. Môi trường trong sạch cũng làm tăng số lượng dân di cư từ thành thị về nông thôn. Ngày nay, số dân thành thị quá đông nên các quốc gia có xu hướng khuyến khích dân cư di chuyển dân ra khu vực ngoại thành để đảm bảo sự phát triển bền vững, hạn chế tạo nên sức ép cho thành phố.

Môi trường đang là bài toán nan giải của toàn thế giới nói chung và mỗi người nói riêng. Chỉ có phát triển, cải tạo môi trường con người mới có một cuộc sống trọn vẹn nhất, đầy đủ nhất về mọi mặt: sức khỏe, vật chất, tinh thần…. Môi trường trong sạch cũng xem như là sự đảm bảo về chất lượng dân số, đảm bảo cho cuộc sống con người. Chính vì vậy, mọi người hãy cùng nhau cải thiện môi trường, cứu lấy thế giới, tạo lập cho tương lai chúng ta và thế hệ mai sau một sự phát triển bền vững nhất chỉ bằng những hành động nhỏ nhặt hàng ngày.

Xem thêm: Khái niệm phát triển

Xem thêm: Khái niệm phát triển bền vững

(Nguồn tài liệu: Nguyễn Nam Phương, Giáo trình Dân số và phát triển)

5/5 - (1 bình chọn)

Có thể bạn quan tâm

123123

Lytuong.net – Contact: admin@lytuong.net