1. Khái niệm hình tượng văn học
Văn học nhận thức đời sống, thể hiện tư tưởng tình cảm, khát vọng và mơ ước của con người thông qua hình tượng nghệ thuật. Hình tượng chính là phương thức phản ánh thế giới của văn học.
Khái niệm hình tượng có những cội nguồn khác nhau. Trong tiếng la tinh, imago có nghĩa là chân dung, hình ảnh. Trong tiếng Nga, obraz có nghĩa là sự là sự lột tả theo mẫu nào đó. Trong tiếng Hán, tượng có nghĩa là hình vẽ để biểu đạt. Kinh Dịch, thiên Hệ từ truyện có câu: Thánh nhân lập tượng để tận ý (nghĩa là thánh nhân làm ra hình tượng để nói hết ý mình). Trong lí luận văn học cổ Trung Quốc, hình tượng thường được gọi là ý tượng hoặc đơn giản là tượng.
Theo L. I. Timôphêép, hình tượng là bức tranh về đời sống con người vừa cụ thể vừa khái quát, được sáng tạo bằng hư cấu và giàu ý nghĩa thẩm mĩ [1]. Đây là định nghĩa quen thuộc và phổ biến nhất.
Tuy nhiên không nên hiểu đơn giản hình tượng chỉ là những bức tranh đời sống, những hình ảnh (tượng). Vì thế, ở đây cần phân biệt hai khái niệm hình ảnh và hình tượng. Hình ảnh chính là những bức tranh đời sống mà chúng ta gặp trong tác phẩm: cây đa, giếng nước, con đò, và cả con người… Nhưng tất cả mới chỉ là hình ảnh khi chúng chỉ mang ý nghĩa biểu vật cho chính nó. Thí dụ, cây tre chỉ cây tre, giếng nước chỉ giếng nước. Nhưng nếu những hình ảnh đó đã mang những ý nghĩa khác ngoài nó, những ý nghĩa mới, kết tinh, chứa đựng tư tưởng tình cảm của con người, tức những ý nghĩa nhân sinh, khi đó hình ảnh mới trở thành hình tượng. Các nhà mĩ học phương Tây cho rằng hình tượng có chức năng biểu ý, còn người Trung Hoa thường dùng khái niệm ý tượng (hình ảnh có ý) là vì thế. Cây tre trong bài thơ Tre Việt Nam (Nguyễn Duy) là hình tượng bởi ngoài nghĩa cụ thể, nó còn mang ý nghĩa khái quát về con người Việt Nam bất khuất, kiên cường, bền bỉ trong khó khăn, vất vả, đói nghèo. Cô Tấm (Tấm Cám) là hình tượng, bởi vì nhân vật đó đã thể hiện ước mơ về hạnh phúc, công lí của người xưa.
Bên cạnh đó, văn học chuyển những cảm thụ và nhận thức đời sống không chỉ bằng những lời lẽ đơn thuần mà chủ yếu bằng những đối tượng cảm tính. Theo Lưu Hi Tái: Tinh thần của núi không bút nào tả được, phải lấy sương khói mà tả, tinh thần của mùa xuân không tả được, lấy cây cỏ mà tả[2]. Đó chính là việc phải dùng tới những hình thức đời sống như hình ảnh thiên nhiên, đồ vật, con người… để chuyển tải tư tưởng và cảm xúc.
Mọi hình thức của đời sống khi đã chứa đựng những ý nghĩa nhân sinh mới mẻ, giàu tính thẩm mĩ, chứa đựng tư tưởng và tình cảm của con người sẽ trở thành hình tượng. Cho nên, hình tượng vừa cụ thể vừa khái quát, vừa khách quan vừa chủ quan, vừa vật chất vừa tinh thần là vì thế. Bởi lẽ, văn học xây dựng hình tượng vừa để khái quát hiện thực, cắt nghĩa, lí giải đời sống, vừa thể hiện tư tưởng, tình cảm dưới ánh sáng của một lí tưởng thẩm mĩ nhất định.
Như vậy, có thể hiểu, hình tượng là phương thức phản ánh thế giới đặc thù của văn học bằng những hình thức đời sống, được sáng tạo bằng hư cấu và tưởng tượng, vừa cụ thể vừa khái quát, mang tính điển hình, giàu ý nghĩa thẩm mĩ, thể hiện tư tưởng và tình cảm con người.
2. Đặc trưng của hình tượng
2.1 Hình tượng là một khách thể mang tính tinh thần
Nghệ sĩ sáng tạo ra hình tượng, những khách thể đời sống tồn tại trong tác phẩm. Gọi hình tượng là những khách thể, bởi vì trước hết nó là những hình thức đời sống được nhà văn tưởng tượng sáng tạo để trình bày về một hiện thực đời sống nhất định. Ai cũng có thể nhìn các hình tượng ấy như một cái bên gì bên ngoài, như một khách thể. Khách thể đó khi đã được ra đời, có một cuộc sống độc lập riêng, không phụ thuộc vào ý muốn người sáng tạo.
Gọi hình tượng là một thế giới tinh thần vì nó chỉ tồn tại trong cảm nhận, chứ không phải là một thế giới vật chất để ta có thể nhìn, sờ, nắn được. Cái hiện thực tinh thần đó được gìn giữ và truyền đạt trong những phương tiện vật chất nhất định (âm thanh, hình khối, màu sắc). Con người không chỉ sống trong thế giới vật chất mà còn sống trong thế giới tinh thần do các thế hệ trước truyền lại và do thực tiễn dời sống không ngừng tạo ra. Lạc Long Quân, Âu Cơ, vua Hùng, Thánh Gióng đều đang tồn tại như những khách thể tinh thần trong tâm hồn người Việt. Những gì tinh túy nhất trong hiện thực đều được tinh thần hóa để trở thành những khách thể tinh thần như vậy[3].
Hình tượng còn được sáng tạo là để thỏa mãn những khát vọng tinh thần của con người, những khát vọng mà hiện thực cuộc đời không mang đến được. Thỏa mãn về ước mơ công lí: cái ác bị trừng phạt, oan khuất được đền bù, kẻ hiền gặp lành. Thỏa mãn về ước mơ: nồi cơm ăn hết lại đầy là ước mơ của những người quá cực nhọc vất vả vì miếng ăn ; chàng trai, cô gái nghèo xấu xí bỗng chốc hóa thành đẹp đẽ, khỏe mạnh, giàu có là ước mơ của những con người vất vả, nghèo hèn, đầy tủi nhục… Hình tượng văn học mang ý nghĩa đối với đời sống tinh thần con người. Cái vầng trăng ai xẻ làm đôi trong Truyện Kiều tô đậm thêm tâm trạng cô đơn, và chính vì thế càng làm dấy lên nỗi khát khao hạnh phúc của con người. Truyện cổ tích Trầu Cau đâu chỉ là chuyện phong tục mà là chuyện tình nghĩa anh em, vợ chồng gắn bó thắm thiết keo sơn.
Hình tượng mang tính tinh thần còn vì nó được xây dựng bởi hư cấu và tưởng tượng, bởi nó chỉ tồn tại trong thế giới tinh thần, trong trí tưởng tượng của con người. Tuy nhiên kể cả khi nhà văn sáng tạo theo một nguyên mẫu nào đó, thì nguyên mẫu ấy cũng đã được lắp ghép, tái tạo, lựa chọn theo một góc nhìn và ý tưởng nhà văn muốn tô đậm. Do mang tính tinh thần nên thế giới của hình tượng là một thế giới khác, đó là một thế giới có không gian, thời gian, nhịp điệu với những quy luật và giá trị riêng. Ở cuộc đời thật, đã mấy cô Tấm trở thành hoàng hậu, mấy chàng trai nghèo đuợc lên ngôi vua? Nhưng trong văn học, con người đã thực hiện được ước mơ đổi đời đó của mình.
2.2 Hình tượng mang tính tạo hình và biểu hiện
Tạo hình là làm cho khách thể tinh thần vốn vô hình có được một tồn tại cụ thể, cảm tính bề ngoài. Nó bao gồm việc tạo cho hình tượng một không gian, thời gian, những sự kiện và những quan hệ, tạo dựng được môi trường và những con người có ngoại hình, nội tâm, hành động, ngôn ngữ.
Hình tượng vốn là một khách thể tinh thần nên phải có cái hình mới tồn tại. Theo Lưu Hiệp: có cái hình xuất hiện thì cái đẹp mới nảy sinh (Văn tâm điêu long). Còn Hêghen cũng khẳng định, hình ảnh chính là sự khách thể hóa những rung động nội tại để con người nhìn thấy bộ mặt tinh thần của chính mình qua ngoại vật (Mĩ học). Ví như, tư tưởng về chủ quyền quốc gia: Sông núi nước Nam vua Nam ở (Lí Thường Kiệt), hay cảm xúc về sự mất mát: Ai đem con sáo sang sông, Để cho con sáo sổ lồng bay đi (ca dao). Như vậy, tạo hình chính là để cho sự vật và cả những cái trừu tượng như một tư tưởng, hoặc mơ hồ như một cảm xúc cũng hiện lên rõ rệt.
Tạo hình không đòi hỏi trình bày mọi chi tiết của đối tượng. Nó chỉ chọn lọc những chi tiết ít ỏi nhất nhưng giàu màu sắc biểu hiện, tiêu biểu nhất cho một cuộc sống, một tình huống, một tính cách. Giá trị và ý nghĩa của tạo hình là thể hiện chỉnh thể. Sêkhốp từng nói, chỉ một mảnh chai vỡ lấp loáng thể hiện được cảnh sắc một đêm trăng. Nguyễn Tuân thích chi tiết tiếng ếch trên sông làm sống dậy một niềm hoài cổ của Tú Xương trong bài Sông lấp. Nói cách khác, chính là thể hiện được tính toàn vẹn của chỉnh thể với cái thần, khí của sự vật. Có như vậy, tạo hình mới thành công. Người xưa thường nói đến quan hệ giữa hình và thần, hình và khí tức với cái tinh thần, cái vận động nội tại, cái khí chất, phong thái riêng của sự vật đó. Quan niệm hình thần chỉ ngoại hình và khí chất tinh thần của sự vật gắn chật với nhau trong một sự vật. Xưa Lưu Ân đời Hán trong sách Hoài Nam tử đã từng nhận xét có người vẽ Tây Thi đẹp mà không có duyên, họa mắt Mạnh Bôn to mà không đáng sợ, để nói những bức vẽ không có hồn. Hình vẽ trở thành hình tượng khi nó truyền được cái thần, cái khí của khách thể tinh thần[4].
Biểu hiện là phẩm chất tất yếu của tạo hình. Biểu hiện là khả năng bộc lộ cái bên trong, cái bản chất của sự vật, hé mở những nỗi niềm sâu kín của tâm hồn. Biểu hiện giúp hình tượng được cảm nhận một cách toàn vẹn, nhất là thể hiện được khuynh hướng, tư tưởng, tình cảm của con người, của tác giả trước các hiện tượng đời sống.
Tạo hình và biểu hiện của hình tượng được bộc lộ qua chi tiết, tình tiết (những thành phần nhỏ nhất của hình tượng), một hình ảnh, một cảm xúc, một âm thanh, một màu sắc, một quan hệ. Chúng liên kết với nhau, tạo thành một hình tượng toàn vẹn, hiện lên rõ nét trong tâm trí người đọc. Chẳng hạn, cánh buồm lẻ loi đơn độc tan biến vào bầu không cùng dòng sông cuồn cuộn chảy ngang trời đã diễn tả được nỗi buồn và sự cô đơn của con người trong cảnh biệt li trong thơ Lí Bạch. Hêghen gọi các chi tiết trong tác phẩm là những ‘con mắt’, qua đó chẳng những thấy được thế giới nghệ thuật mà còn thấy được ‘một tâm hồn tự do trong cái vô hạn’ của tác giả[5]. Như vậy, tạo hình là để biểu hiện, và muốn biểu hiện phải nhờ tạo hình.
Cơ sở của tạo hình là sự tương đồng của hình tượng so với cái được miêu tả. Cơ sở của biểu hiện là sự khác biệt, là cái không bình thường, cái bất thường. Trong câu ca: Thân em như tấm lụa đào, Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai, cái tương đồng ở đây là sự so sánh làm nổi bật vẻ đẹp phẩm chất của cô gái, nhưng cũng nói được tính không xác định của số phận cô. Một cô gái có những phẩm chất tốt đẹp lẽ ra phải có số phận tương ứng. Nhưng thực sự, số phận cô lại phụ thuộc vào sự ngẫu nhiên nào đó. Đó là cái bất thường. Chính điều này tạo nên sự xót xa trong lời than về số phận. Đây chính là nội dung biểu hiện của hình tượng.
Sự kết hợp tạo hình và biểu hiện làm cho hình tượng có một hình thức độc đáo. Đó là một thể thống nhất giữa thực và hư, trực tiếp và gián tiếp, ổn định và biến hóa, mang đầy nội dung cuộc sống, tư tưởng và cảm xúc.
2.3 Tính quy ước và sáng tạo của hình tượng
Hình tượng văn học, về bản chất, là một loại kí hiệu. Kí hiệu là phương tiện gìn giữ và truyền đạt kinh nghiệm: chẳng hạn như từ ngữ, còi báo động, tín hiệu đèn xanh đèn đỏ trong giao thông. Kí hiệu có khi chỉ là một hình vẽ, một màu sắc, một từ ngữ, nhưng nó mang một nội dung có tính quy ước hợp lí của lôgic đời sống để mọi nguời có thể nhận biết được.
Hình tượng khi được vật chất hóa bằng từ ngữ, bằng các chi tiết tạo hình và biểu hiện cũng mang tính kí hiệu. Thí dụ, Sen tàn, cúc lại nở hoa là hình tượng kí hiệu của mùa thu. Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông là kí hiệu của mùa hè. Khi hình tượng được coi là một kí hiệu nghĩa là nó có những nội dung hợp lôgic, mang tính truyền thống, ổn định, mà mọi người có thể hiểu và chia sẻ được.
Hình tượng văn học còn là những kí hiệu mang tính thẩm mĩ, bởi vì nó không chỉ diễn tả nội dung thực tại ổn định mà bao giờ cũng chỉ ra cái mới, phát hiện cái độc đáo mang cá tính nghệ sĩ[6]. Cũng là những hình tượng mang kí hiệu của mùa thu, nhưng Nguyễn Du viết: Long lanh đáy nước in trời, Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng, còn theo Vương Duy: Ngô đồng nhất diệp lạc, Thiên hạ cộng tri thu. Cùng một hiện tượng, nhưng mỗi nghệ sĩ lại chọn những kí hiệu khác nhau.
Hình tượng luôn thể hiện, khái quát một tư tưởng, một thái độ, một quan niệm của chủ thể về cuộc đời. Để biểu hiện ý nghĩa khái quát ấy, hình tượng phải có một hình thức chủ quan đặc biệt, ghi dấu cách cảm nhận và thể hiện thế giới độc đáo, riêng biệt, không lặp lại của từng tác giả. Ví như, cùng là diễn tả cái buồn chán, tội nghiệp của những kiếp sống vô danh, vô nghĩa, sống như chưa hề được sống, Thạch Lam đã dùng hình ảnh bóng đêm và niềm khao khát ánh sáng của hai chị em trong Hai đứa trẻ, còn trong Tỏa nhị kiều, Xuân Diệu lại miêu tả sự quẩn quanh, xám xịt, lỡ cỡ của cuộc đời hai cô gái trẻ và hình ảnh hai hạt cơm nguội chính là một hình ảnh khái quát về kiếp sống vô nghĩa đó.
Mỗi hình tượng, vừa là sự tái hiện một hiện tượng thực tại, vừa mã hóa một nội dung cảm xúc do hiện tượng gợi lên trong những tình huống xã hội nhất định. Bông sen gợi sự trong trắng, thơm đẹp nơi ao bùn, không gian cao xa gợi sự hùng vĩ, ngưỡng mộ. Vì vậy, khi Tố Hữu viết: Tôi lại về quê Bác, làng Sen, Ơi hoa sen đẹp của bùn đen thì ai cũng hiểu. Còn như khi nhà thơ viết: Hỡi những chàng trai cô gái yêu, Trên những đèo mây, những tầng núi đá, nếu bỏ qua cái đẹp cao cả, hào hùng trong các yếu tố đèo mây, tầng núi thì đã bỏ mất cái cao xa, lung linh vời vợi của hình tượng[7].
Như vậy là, trong các chi tiết tạo hình luôn có sự mã hóa các tư tưởng, cảm xúc xã hội, thẩm mĩ. Mỗi thời kì văn học dân tộc, đều có cách mã hóa khác nhau tạo thành ngôn ngữ nghệ thuật riêng của từng thời kì. Chẳng hạn, nếu như trong văn học dân gian Việt Nam, thuyền tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh, trôi dạt, vô định, thì ở phương Tây xưa, thuyền lại tượng trưng cho sự phiêu du của linh hồn sang thế giới bên kia. Từ đó ta thấy nguồn gốc phương Tây của hình ảnh thuyền hồn trong bài 14 tháng 7 của Tố Hữu hoặc trong câu thơ của Huy Cận: Hiu hiu gió đẩy thuyền lên biển trời, Chở hồn lên tận chơi vơi. Như vậy, hình tượng có sự vận động qua lịch sử, các kí hiệu thẩm mĩ có khác nhau qua từng thời kì. Muốn hiểu hình tượng nghệ thuật, đòi hỏi phải có sự giải mã các kí hiệu nghệ thuật, kí hiệu thẩm mĩ [8].
Nhưng bản chất của kí hiệu lại có xu hướng cố định hóa, trở thành công thức, dễ rơi vào sáo mòn. Vì vậy kí hiệu phải luôn được đổi mới, cắt nghĩa mới, sáng tạo kí hiệu mới. Một trong những cách làm cho hình tượng luôn mới là cấu trúc lại các kí hiệu thẩm mĩ quen thuộc, làm cho nó có thêm những ý nghĩa mới. Cũng hình tượng thuyền và bến như trong ca dao xưa, nhưng trong bài thơ Lòng anh làm bến thu của Chế Lan Viên: Buổi sáng em xa chi, Cho chiều mùa thu đến, Để lòng anh hóa bến, Nghe thuyền em ra đi, chúng lại mang những ý nghĩa mới mẻ về vị trí, phẩm chất, biểu tượng.
2.4 Hình tượng chứa đựng tình cảm xã hội và lí tưởng thẩm mĩ
Hình tượng không phải là sự sao chép nguyên xi đời sống hiện thực mà còn mang sẵn quan niệm, đánh giá về thế giới, chứa đựng một tư tưởng nhân sinh. Nỗi khát khao bắt Nữ thần Mặt trời về làm vợ (Đăm San) chính là nỗi khát khao chinh phục tự nhiên, là sự khẳng định sức mạnh, ý chí của con người thuở xa xưa. Hình ảnh bi đát, thê thảm của đám tang lão Gôriô (Lão Gôriô – Ban dắc) hiện lên như lời tố cáo của tác giả về thực chất các quan hệ người và người trong xã hội tư sản. Như vậy, hình tượng văn học vừa thể hiện quan niệm, tư tưởng vừa thể hiện thái độ, tình cảm của nhà văn.
Tình cảm xã hội là tình cảm của một con người riêng biệt nhưng đã được ý thức trên cấp độ xã hội và được soi sáng bằng một lí tưởng xã hội nhất định. Nó không chỉ là những dấu ấn, những rung động cá nhân riêng lẻ mà còn mang tính phổ quát bởi mọi vận động của đời sống xã hội đều đi qua số phận của cá nhân. Tình cảm xã hội trong văn học cao hơn tình cảm bình thường bởi nó hướng tới những tình cảm chung, bởi cội nguồn của nó là nhu cầu tinh thần, là lí tưởng, ước mơ. Cái nuối tiếc trong bài ca Trèo lên cây bưởi hái hoa, không chỉ là cái nuối tiếc về sự đã trót ràng buộc, mà cao hơn là ý thức cay đắng về số phận, từ đó dấy lên một khát vọng tình yêu, khát khao được chia sẻ, đồng vọng trong những tâm hồn khác. Không chỉ là tình cảm xót thương của một người chú đối với đứa cháu nhỏ (Lượm) đã hi sinh, nhà thơ Tố Hữu còn khẳng định sự bất diệt của một tuổi thơ trong sáng đã hiến dâng đời mình cho tự do của dân tộc. Tư tưởng này mang dấu ấn của tâm thức của mọi người Việt nói chung: những con người đã hi sinh vì Tổ quốc sẽ còn sống mãi với non sông.
Tình cảm xã hội thường đi đôi với lí tưởng thẩm mĩ tức những khát vọng cao cả nhất, tích cực nhất, nhân tính nhất của con nguời về cái tốt, cái đẹp, cái hoàn thiện trong các lĩnh vực khác nhau. Do đó, các hình tượng nghệ thuật thường mang những giá trị kết tinh lí tưởng thẩm mĩ không chỉ của tác giả mà còn của một thời đại, một dân tộc. Hình tượng nguời anh hùng, từ con người mang kích thước phi thường như ông Gióng đến những anh bộ đội bình dị: Mái chèo một chiếc xuồng con, Mà sông nước dậy sóng cồn đại dương (Tố Hữu) là kết tinh của quan niệm về người anh hùng, một hình mẫu đẹp trong tâm thức dân tộc Việt Nam, một dân tộc hàng nghìn năm sống trong ngọn lửa chống ngoại xâm.
2.5 Tính nghệ thuật của hình tượng
Hình tượng mang tính thẩm mĩ, nói cách khác là mang tính nghệ thuật, bởi vì nó được sáng tạo là để thưởng thức và thoả mãn về mặt thẩm mĩ. Người ta đọc một câu thơ, một câu chuyện, thường thích thú vì những hình ảnh đẹp, những vần thơ réo rắt, những cốt truyện li kì, hấp dẫn, những nhân vật có hình thức và tính cách quyến rũ… Sức hấp dẫn của hình tượng là một dấu hiệu quan trọng. Điđơrô nói với nghệ sĩ: “Trước hết, anh phải làm cho tôi cảm động, kinh hoàng, tê mê, anh phải làm cho tôi sợ hãi, run rẩy, rơi lệ hay căm hờn”[9].
Sức hấp dẫn đầu tiên được tạo thành từ sự sinh động, giống như thật của hình tượng. Gorki đã từng đưa trang sách lên soi qua ánh sáng để xem có đúng là có những con người ở đằng sau trang sách thật không là vì vậy. Nhưng tính sinh động không chỉ đơn giản là giống như thật, mà còn ở sự mới mẻ, lạ kì trong cảm nhận về thế giới chỉ thuộc một hình tượng nào đó. Khi viết về Bác Hồ: Ta lẫn Bác với bầu trời và giọt lệ, Với hương mộc trong đêm và lộc nõn trên cành, Chế Lan Viên đã thể hiện một cái nhìn lạ hóa đối tượng. Nhân vật và sự kiện sinh động thường có những biến hóa bất ngờ không lường trước được. Con chim đến ăn khế tự nhiên lại nói: ăn một quả, trả cục vàng. Miếng trầu têm cánh phượng không ngờ lại là dấu hiệu giúp Vua nhận ra cô Tấm, vợ mình. Anh Tràng chỉ định hát ghẹo mấy cô gái cho vui không ngờ nhặt được vợ. Chí Phèo định đi giết con khọm già nhà nó, bỗng quay sang nhà Bá Kiến đòi làm người lương thiện!. Chính những biến hóa vô cùng ấy đã làm cho hình tượng có sức lôi cuốn đặc biệt.
Hình tượng còn hấp dẫn bởi những chân lí đời sống được phát biểu dưới những hình thức độc đáo: Khi ta ở chỉ là nơi đất ở, Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn (Chế Lan Viên); Gió đưa cây cải về trời, Rau răm ở lại chịu lời đắng cay (ca dao). Nhưng chân lí đời sống trong hình tượng luôn được thể hiện bằng cái nhìn mang tính chủ quan mãnh liệt. Vì vậy, ta hay bắt gặp những lời than, câu hỏi, những trạng thái sững sờ, đột ngột, choáng ngợp của chủ thể trước cuộc đời: Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, Em có chồng anh tiếc lắm thay! (ca dao); Non cao những ngóng cùng trông, Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày (Tản Đà). Nếu thiếu đi những biểu hiện chủ quan thì những hình tượng đó chắc bớt đi nhiều tính sinh động, biểu hiện của những chủ thể đang cảm xúc trước cuộc đời.
Như vậy, hình tượng là một phương thức chiếm lĩnh đời sống đặc thù của văn học. Trong hình tượng, có sự thống nhất của cái cá biệt và khái quát, tình cảm và lí trí, tái hiện và biểu hiện, truyền thống và sáng tạo, thể hiện tính muôn màu của thế giới và sức mạnh chủ thể của người sáng tạo.
- [1] L. I. Timôphêép. Nguyên lí lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Matxcơva, 1976, trang 60
- [2] Dẫn theo Lưu An Hải, Tôn Văn Hiến. Lí luận văn học, Nxb ĐHSP Hoa Trung, Vũ Hán, 2002, Nguyễn Ngọc Minh dịch, trang 54
- [3] Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 139
- [4] Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 140
- [5] Hêghen. Mĩ học, tập 1, Matxcơva, 1968, trang 163, (tiếng Nga)
- [6] Xem Khrapchencô. Bản chất của kí hiệu thẩm mĩ, Sách Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực và con người, Matxcơva, 1978, trang 262-293, (tiếng Nga)
- [7] Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 142
- [8] Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 143
- [9] Điđơrô. Bàn về hội hoạ. Sách Tây phương văn luận tập, tập 1, Thượng Hải, 1964, trang 387 (tiếng Trung). Dẫn theo Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 145