Trang chủ Thuế Thuế là gì? Bản chất, đặc trưng, vai trò, phân loại

Thuế là gì? Bản chất, đặc trưng, vai trò, phân loại

by Ngo Thinh
Published: Last Updated on 193 views

Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Nhà nước là một tổ chức chính trị, đại diện quyền lợi cho giai cấp thống trị, thi hành các chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai trị xã hội. Nhà nước xuất hiện đòi hỏi phải có cơ sở vật chất nhất định để đảm bảo cho sự tồn tại và hoạt động của mình. Do đó, Nhà nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có để tập trung một bộ phận của cải trong xã hội vào tay Nhà nước. Việc huy động, tập trung nguồn của cải đó có thể được thực hiện bằng các cách khác nhau, trong đó có hình thức đóng góp bắt buộc được gọi là thuế.

Thuế luôn luôn gắn chặt với sự phát triển của tổ chức bộ máy Nhà nước. Sự phát triển và thay đổi hình thái tổ chức Nhà nước luôn kéo theo sự cải biến của các hình thức thuế và hệ thống thuế nói chung. Cùng với việc mở rộng các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, các hình thức thuế ngày càng phong phú hơn, công tác quản lý thuế ngày càng được hoàn thiện hơn và thuế đã trở thành một công cụ quan trọng, có hiệu quả của Nhà nước để tác động đến đời sống kinh tế – xã hội của đất nước.

1. Bản chất của thuế

Trên góc độ người nộp thuế, thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo Luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.

Trên góc độ của Nhà nước, “Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho Nhà nước thông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà nước”.

Trên góc độ kinh tế học, thuế được xem xét như là một biện pháp đặc biệt, theo đó, Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của Nhà nước.

Mặc dù còn nhiều các định nghĩa khác nhau, song nếu khái quát chung để tìm các hạt nhân hợp lý của từng quan điểm, có thể rút ra một số đặc trưng chung của thuế sau đây:

Thứ nhất, nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các mối quan hệ tiền tệ phát sinh giữa Nhà nước với các pháp nhân và các thể nhân trong xã hội.

Thứ hai, những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt – việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh của Nhà nước.

Thứ ba, xét theo khía cạnh luật pháp, thuế là một khoản nộp cho Nhà nước được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.

Từ những nội dung trên, có thể nêu lên khái niệm tổng quát về thuế như sau:

Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.

2. Các đặc trưng của thuế

Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong, vốn có của thuế. Những thuộc tính đó có tính ổn định tương đối qua từng giai đoạn phát triển và biểu hiện thành những đặc trưng riêng có của thuế, qua đó giúp ta phân biệt giữa thuế với các công cụ tài chính khác. Những đặc trưng đó là:

1/ Tính bắt buộc

Tính bắt buộc là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt giữa thuế với các hình thức động viên tài chính khác của ngân sách nhà nước. Phân phối mang tính chất bắt buộc dưới hình thức thuế là một phương thức phân phối của Nhà nước, theo đó một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho Nhà nước mà không kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế.

Tính bắt buộc của thuế không mang nội dung hình sự, nghĩa là việc đóng thuế cho Nhà nước không phải là kết quả nảy sinh từ hành vi phạm pháp mà là nghĩa vụ đóng góp được pháp luật thừa nhận và xã hội tôn vinh.

2/ Tính không hoàn trả trực tiếp

Sự không hoàn trả trực tiếp được thể hiện cả trước và sau khi thu thuế. Trước khi thu thuế, Nhà nước không hứa hẹn cung ứng trực tiếp một dịch vụ công cộng nào cho người nộp thuế. Sau khi nộp thuế, Nhà nước cũng không có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho người nộp thuế. Cũng như vậy, người nộp thuế không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế với lý do họ không được hoặc ít được hưởng những lợi ích trực tiếp từ nhà nước. Lợi ích từ việc nộp thuế sẽ được hoàn trả gián tiếp thông qua các dịch vụ công cộng của Nhà nước cho cộng đồng và xã hội.

3/ Tính pháp lý cao

Đặc điểm này thể hiện thuế là một công cụ tài chính có tính pháp lý cao. Điều đó được quyết định bởi quyền lực chính trị của Nhà nước. Để sự chuyển giao bắt buộc thông qua thuế diễn ra được “êm thấm”, mặc dù quá trình đó được thực hiện dưới sự bảo vệ của luật pháp, thì những quy định của pháp luật cũng không thể tùy tiện mà phải dựa trên những cơ sở khoa học nhất định. Vì vậy, trong luật thuế phải quy định rõ những thủ tục cần thiết quy định phạm vi, hình thức và các thủ tục, quy trình pháp lý liên quan đến nghĩa vụ nộp thuế như: đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác.

3. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường

3.1. Huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước

Ngay từ lúc phát sinh, thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện động viên nguồn tài chính cho Nhà nước. Đây chính là vai trò truyền thống, căn bản của thuế.

Nhờ có vai trò nay mà Nhà nước mới có thể có trong tay mình nguồn tiền tệ cần thiết để chi tiêu cho các hoạt động của mình, đồng thời tạo ra những tiền đề để Nhà nước tiến hành tái phân phối sản phẩm xã hội theo các mục tiêu quản lý được đặt ra. Hiện nay, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, thuế là nguồn thu chủ yếu và quan trọng nhất. Tỷ trọng các khoản thu từ thuế thường chiếm trên 80% tổng thu của ngân sách. Ở nước ta, nếu không tính các khoản thu từ dầu thô, nguồn thu từ thuế cũng thường chiếm trên 90% tổng các khoản thu của ngân sách nhà nước trong vòng một thập kỷ trở lại đây.

3.2. Điều tiết kinh tế vĩ mô

Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc quy định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp thuế, sử dụng linh hoạt các ưu đãi và miễn, giảm thuế. Trên cơ sở đó, Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung, phù hợp lợi ích của xã hội… Trong điều kiện cơ chế thị trường, khi sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào nền kinh tế ngày càng hạn chế thì việc sử dụng công cụ thuế như một biện pháp điều chỉnh vĩ mô mang lại hiệu quả cao. Vai trò này xuất phát từ khả năng tái phân phối của cải làm thay đổi tương quan lực lượng vật chất của các đối tượng điều chỉnh trong nền kinh tế. Tác động điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế có thể biểu hiện ở những khía cạnh sau:

Thứ nhất, thuế có thể được sử dụng như một công cụ nhạy bén góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả, kích thích đầu tư tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững.

Theo các lý thuyết kinh tế, lạm phát và tăng giá có thể xuất phát từ nguyên nhân cầu kéo hoặc chi phí đẩy. Trường hợp lạm phát do nguyên nhân cầu kéo làm giá cả tăng cao, nhà nước có thể dùng biện pháp điều chỉnh tăng thuế tiêu dùng làm giảm bớt áp lực tăng cầu giả tạo, trên cơ sở đó điều chỉnh lại cân bằng quan hệ cung cầu. Trường hợp ngược lại, nếu lạm phát nảy sinh từ nguyên nhân chi phí đẩy thì việc giảm thuế đối với các yếu tố đầu vào là cần thiết nhằm giảm nhẹ áp lực tăng chi phí và tạo điều kiện hạ giá bán sản phẩm, trên cơ sở đó lập lại quan hệ cung cầu, ổn định giá cả thị trường.

Cũng theo các lý thuyết kinh tế hiện đại, tự thân của nền kinh tế thị trường có xu hướng phát triển theo chu kỳ (hưng thịnh – suy thoái – tiêu điều – hồi phục) gây ra những cuộc tàn phá nặng nề sau mỗi chu kỳ phát triển. Thuế được coi là công cụ điều tiết nhạy cảm để hạn chế sự phát triển chu kỳ của nền kinh tế. Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển quá nóng, Nhà nước có thể tăng thuế nhằm giảm bớt đầu tư tư nhân. Ngược lại, trong điều kiện nền kinh tế phát triển trì trệ, việc giảm thuế đầu tư sẽ góp phần kích thích đầu tư, kích cầu tiêu dùng làm cho kinh tế hồi phục nhanh hơn.

Cũng tương tự như vậy, việc áp dụng chính sách thuế phân biệt giữa các ngành, các lĩnh vực, các khu vực, các vùng lãnh thổ khác nhau có tác dụng phân bổ lại nguồn lực, tạo ưu thế tương đối cho những vùng, khu vực ngành nghề cần ưu tiên phát triển nhằm duy trì hoặc lập lại trạng thái phát triển hài hòa, cân đối của toàn bộ nền kinh tế.

Thứ hai, thuế được coi là công cụ sắc bén để phân phối lại sản phẩm xã hội nhằm đạt mục tiêu công bằng xã hội.

Phát triển nền kinh tế thị trường chắc chắn sẽ nảy sinh những vấn đề xã hội cần có sự can thiệp của Nhà nước. Một trong những vấn đề đó là sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các thành viên trong xã hội do những lợi thế khách quan hoặc hoàn cảnh bất lợi ngẫu nhiên mang lại. Xét cả từ góc độ kinh tế lẫn xã hội, sự chênh lệch thái quá về thu nhập giữa các thành viên trong xã hội cần phải được hạn chế. Tham gia vào quá trình này, thuế được coi là công cụ tái phân phối quan trọng, góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Thuế có thể thực hiện được những mục tiêu công bằng này nếu nó bao quát được hầu hết đối tượng nộp thuế và phân biệt mức đóng góp thông qua các mức thuế suất khác nhau, đặc biệt là thuế suất lũy tiến theo thu nhập.

Thứ ba, thuế còn được coi là công cụ sắc bén được sử dụng nhằm đạt mục tiêu bảo hộ sản xuất nội địa và duy trì, tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế.

Việc mở cửa nền kinh tế cũng đồng nghĩa với việc phải đối mặt với những rủi ro cạnh tranh khốc liệt từ bên ngoài. Vì vậy, bất cứ nước nào tham gia hội nhập đều phải thiết lập một hàng rào bảo hộ hợp lý và hợp pháp nhằm hạn chế hoặc giảm bớt xung động cạnh tranh bất lợi. Trong các công cụ bảo hộ (thuế và phi thuế) thì thuế quan được coi là hàng rào bảo hộ linh hoạt và hiệu quả nhất nhằm điều hòa áp lực cạnh tranh. Mức thuế cao đối với hàng nhập khẩu có tác dụng giảm bớt hoặc triệt tiêu lợi thế giá cả giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước. Ngược lại, mức thuế thấp hoặc bằng không đối với hàng nhập khẩu có tác dụng khuyến khích nhập khẩu những hàng hóa cần thiết bù đắp thiếu hụt cho nền kinh tế đồng thời gây áp lực cần thiết nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho những ngành hàng nội địa tương tự.

Khi nền kinh tế đã hội nhập sâu, các công cụ bảo hộ mới như thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và thuế đối kháng có thể được sử dụng bổ sung cho thuế quan trong việc bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hiệu quả.

Ở cấp độ cao hơn, hệ thống thuế hợp lý với mức thu vừa phải sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế thông qua việc kích thích xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế.

4. Phân loại thuế

Phân loại thuế là việc sắp xếp các sắc thuế trong hệ thống thuế thành những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định.

Phân loại thuế có ý nghĩa quan trọng trong quản lý thu thuế từ khâu xây dựng chính sách đến triển khai thực hiện. Phân loại thuế nhằm làm rõ những điểm đặc thù của từng loại thuế và ảnh hưởng của chúng trong hệ thống thuế nói chung để vận dụng đúng đắn trong quá trình hoạch định chính sách thuế.

Phân loại thuế có thể được thực hiện dựa trên những tiêu thức sau đây:

4.1. Phân loại theo đối tượng chịu thuế

Nếu căn cứ vào đối tượng chịu thuế, có thể chia các sắc thuế thành ba loại:

– Thuế thu nhập bao gồm các sắc thuế có đối tượng chịu thuế là thu nhập nhận được. Thu nhập này được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: thu nhập từ lao động dưới dạng tiền lương, tiền công; thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh dưới dạng lợi nhuận, lợi tức, cổ phần… Thuế thu nhập cũng có nhiều hình thức khác nhau: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập công ty, thuế thu nhập doanh nghiệp…

– Thuế tiêu dùng là loại thuế có đối tượng chịu thuế là phần thu nhập được mang tiêu dùng trong hiện tại. Trong thực tế loại thuế tiêu dùng được thể hiện dưới nhiều dạng như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng…

– Thuế tài sản là loại thuế có đối tượng chịu thuế là giá trị tài sản. Tài sản có nhiều hình thức biểu hiện: Tài sản chính gồm có tiền mặt, tiền gửi, chứng khoán, thương phiếu…; Tài sản cố định gồm nhà cửa, đất đai, máy móc, nhà máy, xe cộ…; Tài sản vô hình như nhãn hiệu, kỹ thuật và lợi thế thương mại. Thuế tài sản thường đánh trên giá trị của tài sản cố định gọi là thuế bất động sản, đánh trên tài sản chính gọi là thuế động sản.

4.2. Phân loại theo phương thức đánh thuế

Các hình thức thuế, suy cho cùng đều đánh vào thu nhập của người nộp thuế. Tuy nhiên, tùy thuộc vào phương thức đánh thuế – đánh một cách trực tiếp hay gián tiếp vào thu nhập mà người ta chia hệ thống thuế thành hai loại:

– Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế. Người nộp thuế trực thu là người trả thuế cuối cùng trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh nên khả năng và cơ hội chuyển dịch gánh nặng thuế của người nộp thuế cho người khác trở nên khó khăn hơn.

Thuế trực thu thường bao gồm các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là thu nhập nhận được như: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhà đất…

– Thuế gián thu là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập và tài sản của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa và dịch vụ. Người sản xuất hàng hóa và cung ứng dịch vụ cộng thêm phần thuế vào trong giá bán hàng hóa và dịch vụ của mình. Khi hàng hóa và dịch vụ được bán, người sản xuất thay mặt người tiêu dùng nộp khoản thuế gián thu cho Nhà nước.

Thuế gián thu mang tính chất thuế lũy thoái vì mức thuế không phụ thuộc vào thu nhập có khả năng nhận được của người nộp thuế. Thuế gián thu bao gồm: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu và nhập khẩu, thuế bảo vệ môi trường.

4.3. Phân loại theo mối quan hệ giữa thuế với thu nhập

Thuế lũy tiến: là loại thuế có tỷ suất thuế bình quân tăng khi thu nhập tăng.

Thuế lũy thoái: là loại thuế có tỷ suất thuế bình quân giảm khi thu nhập tăng.

Thuế tỷ lệ: là loại thuế có tỷ suất thuế bình quân không đổi khi thu nhập thay đổi. Ví dụ 1: Ông X có thu nhập là 5 – 10 triệu/tháng, mức thuế suất thuế thu nhập cá nhân theo biểu thuế suất hiện hành ở Việt Nam là 5%. Khi thu nhập của ông X tăng lên từ 10 – 18 triệu/tháng, mức thuế suất thuế thu nhập cá nhân là 10% tính trên phần vượt 10 triệu… Khi thu nhập của ông X tăng lên đến mức trên 80 triệu/tháng, mức thuế suất thuế thu nhập cá nhân sẽ là 35% tính trên phần vượt 80 triệu. Đây là loại thuế lũy tiến hay lũy thoái?

Đáp án: Mức thuế tăng lên khi thu nhập tăng được gọi là thuế lũy tiến.

Ví dụ 2: Ông A có thu nhập 10 triệu, ông B có thu nhập 100 triệu. Ông A và B mua một cái máy tính trị giá 20 triệu, thuế suất thuế GTGT của mặt hàng máy tính là 10% là 2 triệu. Thuế GTGT trong trường hợp này được gọi là thuế lũy tiến hay lũy thoái?

Đáp án: Tỷ suất thuế bình quân được tính bằng số thuế phải trả trên tổng thu nhập. Như vậy, tỷ suất thuế bình quân của ông A là 2/10 = 20%, tỷ suất thuế bình quân của ông B là 2/100 = 2%. Ta có thể thấy: thu nhập của ông B gấp 10 lần ông A nhưng tỷ suất thuế bình quân của ông B chỉ bằng 1/10 lần ông A. Như vậy, chúng ta có thể gọi đây là loại thuế lũy thoái.

4.4. Phân loại theo cách xác định thuế suất

Thuế theo đơn vị: là loại thuế được xác định dựa trên đơn vị hàng hóa dịch vụ.

Thuế theo giá: là loại thuế được quy định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên giá hàng hóa dịch vụ.

Thuế hỗn hợp: là loại thuế kết hợp cả theo giá và theo đơn vị hàng hóa dịch vụ.

Ví dụ 3: Thuế nhập khẩu ô tô là 80% tính trên giá nhập khẩu được gọi là thuế theo giá. Thuế nhập khẩu xe ô tô cũ được tính là 3.600 USD/1 xe ô tô nhập khẩu có dung tích xilanh dưới 1.000 cm3 được gọi là thuế theo đơn vị.

TÓM LƯỢC:

Thuế là khoản đóng góp bắt buộc của các thể nhân và pháp nhân cho nhà nước để thực hiện các mục đích công. Tùy theo tiêu thức mà có thể phân chia thành nhiều loại thuế khác nhau. Cách phân chia chủ yếu là dựa vào đối tượng đánh thuế để phân thành thuế thu nhập, thuế tiêu dùng và thuế tài sản.

Thuế có vai trò quan trọng trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước và điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Ngày nay không một quốc gia nào lại không dựa vào nguồn thu từ thuế để cung cấp nguồn lực công và sử dụng thuế như một công cụ sắc bén nhằm điều chỉnh nền kinh tế theo các mục tiêu định hướng của từng giai đoạn phát triển kinh tế.

(Lytuong.net – Nguồn: topica.edu.vn)

5/5 - (1 bình chọn)

Có thể bạn quan tâm

123123

Lytuong.net – Contact: [email protected]