Hoàn cảnh, Diễn biến Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.
1. Chủ trương và kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam
Từ ngày 30-9 đến 8-10-1974, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bàn phương án hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam. Sau khi phân tích tình hình, Hội nghị nhận định: “Mĩ đã rút ra khỏi miền Nam thì khó có khả năng nhảy lại miền Nam và dù chúng có thể can thiệp thế nào đi chăng nữa cũng không thể cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn” (1). Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị nhất trí thông qua phương án giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 – 1976. Kế hoạch chiến lược gồm hai bước:
Bước 1 (1975): Tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp, tạo thời cơ
Bước 2 (1976): Thực hiện Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Từ sau Hội nghị Bộ Chính trị, với quyết tâm cao nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, một công việc chuẩn bị được tiến hành “thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng gọn và thắng triệt để trong thời gian hai năm 1975 – 1976… ” (2). Tình hình chiến sự miền Nam cũng chuyển biến có lợi cho ta. Thế và lực của cách mạng miền Nam mạnh thêm nhiều. Cùng với sự ra đời của các quân đoàn, khối chủ lực của các quân khu phát triển nhanh chóng. Thời cơ chiến lược đang phát triển nhanh chóng đến độ chín muồi.
Sau cuộc họp tháng 10-1974, Bộ Chính trị thấy cần phải có thêm thời gian đánh giá tình hình kĩ hơn, xây dựng kế hoạch đầy đủ hơn để đi tới hạ quyết tâm chiến lược có cơ sở khoa học, bảo đảm chắc thắng. Vì vậy Bộ Chính trị quyết định triệu tập Hội nghị mở rộng từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975.
Trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình, Hội nghị Bộ Chính trị khẳng định: “Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn: Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam để tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc” . Bộ Chính trị hạ quyết tâm: “Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền trong thời gian 1975 – 1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta, tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị mọi mặt, tạo điều kiện chín muồi, tiên hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam Việt Nam ” .
Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị nhấn mạnh: Cả năm 1975 là thời cơ, đòn tiến công quân sự mạnh tạo nên thời cơ, phong trào chính trị thúc đẩy thời cơ, tình hình thế giới và nội bộ nước Mĩ là thời cơ… do đó cần phải khẩn trương, phải đánh nhanh hơn, nếu đã có thời cơ mà không kịp thời phát hiện, bỏ lỡ thì có tội lớn với dân tộc.
Kế hoạch chiến lược hai năm 1975 – 1976 là một kế hoạch lớn được chuẩn bị công phu từ giữa năm 1973 qua 8 lần dự thảo của Bộ Tổng Tham mưu. Ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm 1975 – – 1976, Bộ Chính trị còn thông qua một phương án khác cực kì quan trọng: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị (10-1974) và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (l-1975) thể hiện tư duy cách mạng khoa học và sáng tạo, đưa quân và dân ta đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
2- Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975
Sau khi hoàn thành chuẩn bị chiến lược cả về thế và lực trên cả hai miền đất nước, cuộc Tổng tiến công chiến lược của ta mở đầu từ 4-3-1975, diễn ra liên tục trong 55 ngày đêm, trên toàn chiến trường miền Nam; trong đó nổi bật là ba đòn chiến lược: chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế – Đà Nẵng và chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định được mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh (*).
(*) Gần đây, giới nghiên cứu Lịch sử quân sự đưa ra một quan điểm mới: Cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân 1975 bao gồm ba đòn tiến công chiến lược: Đòn tiến công giải phóng Tây Nguyên, đòn tiến công giải phóng Huế – Đà Nẵng, đòn tiến công giải phóng Sài Gòn – Gia Định. Cả ba đòn đều có ý nghĩa chiến lược mang tính quyết định. Đòn tiến công giải phóng Tây Nguyên là đòn khỏi đầu, đưa tới sự tan rã và sụp đổ về chiến lược của địch, tạo thời cơ cho ta giành thắng lợi trong năm 1975; đòn tiến công Huế – Đà Nẵng là đòn trực tiếp đánh bại âm mưu co cụm chiến lược của địch, góp phần làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng có lợi hoàn toàn cho ta, tạo điều kiện chiến thắng cho cuộc Tổng tiến công; đòn tiến công giải phóng Sài Gòn – Gia Định là cuộc hội quân lớn đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của địch, giành thắng lợi hoàn toàn. Đòn tiến công giải phóng Huế – Đà Nẵng gồm ba chiến dịch diễn ra đồng thời và kế tiếp nhau; đó là: chiến dịch Trị – Thiên – Huế, chiến dịch Nam – Ngãi và chiến dịch Đà Nẵng.
2.1. Chiến dịch Tây Nguyên (từ 10-3 đến 24-3-1975)
Tây Nguyên là một chiến trường cơ động có vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Từ chiến trường này, sẽ có nhiều lợi thế phát triển xuống phía nam theo Đường số 14, hoặc phát triển sang hướng đông theo các trục Đường 19, 7 và 21. Ở Tây Nguyên, địch có 1 sư đoàn chủ lực, 7 liên đoàn biệt động, 4 thiết đoàn xe tăng và thiết giáp. Do đánh giá sai, phán đoán sai ý đồ của ta, chúng cho rằng năm 1975 ta chưa đủ sức đánh thị xã và thành phố; và nếu có đánh, thì cũng đánh ở phía Bắc Tây Nguyên. Vì vậy, địch tập trung lực lượng giữ Plâycu, Kon Tum, còn Đắc Lắc, trong đó có thị xã Buôn Ma Thuột thì sơ hở; càng vào sâu phía trong thị xã, lực lượng càng mỏng.
Xuất phát từ tình hình trên, ý định ban đầu của Bộ Chính trị chọn Tây Nguyên làm chiến dịch mở đầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đến lúc này đã trở thành một quyết định dứt khoát. Đánh Tây Nguyên, ta chọn Nam Tây Nguyên làm hướng tiến cộng chiến lược chủ yếu, mục tiêu tiến công đầu tiên là Buôn Ma Thuột; hướng phát triển tiếp theo là phía đông. Sử dụng lực lượng cũng như cách đánh phải mạnh bạo, bí mật, bất ngờ, nghi binh tốt, hướng sự chú ý của địch vào Bắc Tây Nguyên và Trị – Thiên.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Tổng Quân uỷ Trung ương, ngày 4-3, ta tiến công tiêu diệt một số vị trí địch, cắt đứt Đường số 19 ở An Khê, đánh nghi binh ở Plâycu, Kon Tum, để tạo thế cho chiến dịch. Buôn Ma Thuột đã sơ hở lại càng sơ hở.
Trong lúc Quân đoàn II ngụy ra sức chuẩn bị đối phó với chủ lực ta ở Bắc Tây Nguyên, thì vào lúc 1 giờ 55 phút ngày 10-3- 1975, quân ta tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột, mở đầu chiến dịch Tây Nguyên, cũng là mở cửa đột phá cho cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân 1975. Ngày 11-3, quân ta hoàn toàn làm chủ thị xã.
Ngày 12-3, quân ngụy tập trung lực lượng tổ chức phản công chiếm lại thị xã Buôn Ma Thuột, nhưng đều bị quân ta đánh tan tác. Toàn bộ tuyến phòng thủ của địch ở Tây Nguyên rung chuyển. Quân ngụy hoang mang mất tinh thần, hàng ngũ rối loạn.
Ngày 14-3, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút khỏi Plâycu, Kon Tum, triển khai lực lượng tái chiếm Buôn Ma Thuột. Các đơn vị còn lại sẽ rút về Tuy Hoà (Phú Yên). Ở đó, chúng sẽ tập hợp, củng cố lực lượng tiến hành một chiến dịch chiếm lại Buôn Ma Thuột.
Ngày 16-3, quân ta được lệnh truy kích địch rút chạy theo Đường số 7. Mờ sáng hôm sau, một đơn vị đã nhanh chóng băng rừng ra cắt Đường số 7, chặn địch ở đông Phú Bổn, tiêu diệt địch và đánh xuống Củng Sơn. Ngày 24-3, quân ta tiến vào thị xã Củng Sơn, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch ở đây.
Một bộ phận khác phối hợp với bộ đội địa phương giải phóng các tỉnh miền Trung.
Tây Nguyên rộng lớn gồm 5 tỉnh (Kon Tum, Gia Lai, Phú Bổn, Đặc Lắc và Quảng Đức), với hơn 60 vạn dân được hoàn toàn giải phóng. Hệ thống bố trí chiến lược của Mĩ – ngụy ở miền Nam đứng trước nguy cơ bị chia cắt làm đôi. Tuyến phòng ngự của địch ở ven biển bị uy hiếp trực tiếp.
Chiến thắng Tây Nguyên đã chuyển cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước sang giai đoạn mới: Từ cuộc tiến công chiến lược phát triển thành cuộc Tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.
2.2. Chiến dịch Huế- Đà Nẵng (từ 21-3 đến 29-3-1975)
Ngày 18-3, trong lúc chiến dịch Tây Nguyên đang diễn ra và giành được thắng lợi to lớn, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp và hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975, không chờ đến năm 1976 .
Để thực hiện quyết tâm ấy, theo đề nghị của Quân uỷ Trung ương, hướng chiến lược chủ yếu là Sài Gòn. Trước mắt, Trị – Thiên – Đà Nẵng là hướng chiến lược quan trọng. Phương châm chiến dịch là Táo bạo, bất ngờ, kịp thời, chắc thắng.
Phối hợp với Tây Nguyên, tại Mặt trận Trị – Thiên – Huế, quân ta cũng đẩy mạnh các hoạt động phối hợp. Từ ngày 5-3 đến 20-3, Quân khu V và Quân khu Trị – Thiên – Huế đã làm tan rã một bộ phận quan trọng lực lượng địch ở vùng giáp ranh và đồng bằng, giải phóng phần còn lại của tỉnh Quảng Trị (19-3) và các quận lị Tiên Phước, Phước Lâm, Sơn Trà, Trà Bồng thuộc Quảng Đà – Nam Quảng Ngãi, tạo thành thế uy hiếp Huế – Đà Nẵng.
Từ ngày 21 đến ngày 26-3, quân ta tiến công chia cắt Huế với Đà Nẵng, tiêu diệt Sư đoàn bộ binh số 1 , liên đoàn biệt động quân…, giải phóng thành phố Huế (25-3) và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên (26-3). Cùng thời gian này, quân ta tiến vào giải phóng thị xã Tam Kì (24-3), Quảng Ngãi (25-3), Chu Lai (26-3), tạo thành thế uy hiếp Đà Nẵng từ phía Nam.
Sau khi đánh chiếm thị xã Tam Kì và thành phố Huế, các cánh quân của ta từ Thừa Thiên và Quảng Nam nhanh chóng cơ động, thần tốc, táo bạo, đồng loạt tiến công, phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch.
Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, nhưng lại là căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất của Mĩ – ngụy, rơi vào thế cô lập. Hơn 10 vạn quân ngụy thất trận từ các nơi dồn về trong thành phố trở nên hỗn loạn, không còn khả năng chiến đấu.
Sáng 29-3, từ các hướng, quân ta đồng loạt tiến công vào thành phố. Buổi chiều cùng ngày, quân ta đánh chiếm toàn bộ các mục tiêu quan trọng trong thành phố Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà. Kết hợp với đòn tiến công quân sự, lực lượng địa phương nổi dậy diệt ác phá thế kìm kẹp, giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng vào lúc 17 giờ ngày 29-3-1975.
Cùng thời gian với chiến dịch Tây Nguyên và Huế – Đà Nẵng, từ cuối tháng 3 dầu tháng 4-1975, quân và dân các tỉnh còn lại ở ven biển miền Trung, Nam Tây Nguyên và ở một số tỉnh thuộc Nam Bộ cũng nổi dậy giành quyền làm chủ. Từ ngày 14 đến 29-4, các đảo thuộc quần đảo Trường Sa (do quân ngụy Sài Gòn chốt giữ) lần lượt được giải phóng.
Tiếp theo chiến thắng Tây Nguyên, chiến thắng Huế – Đà Nẵng đã góp phần làm thay đổi hẳn so sánh về thế và lực giữa ta và địch. Lực lượng giảm xuống còn một nửa (từ 4 quân đoàn chủ lực, chỉ còn lại 2 quân đoàn: III và IV). Ngược lại, lực lượng cách mạng miền Nam được giữ vững và bổ sung, được trang bị đầy đủ, hoàn toàn cơ động và có dự trữ dồi dào.
Ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng triệu tập một phiên họp lịch sử. Bộ Chính trị khẳng định: “Cuộc tiến công chiến lược của ta bắt đầu với chiến dịch Tây Nguyên. Thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam”. Do đó, phải “Tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí, kĩ thuật và vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa” 2. cùng ngày, Bộ Chính trị quyết định thành lập Hội đồng chi viện miền Nam ở Trung ương, do Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch và Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thanh Nghị làm Phó Chủ tịch. Ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị họp, nêu rõ: “Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời cơ chiến lược để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu, nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và thực hiện thống nhất Tổ quốc” .
Với cuộc họp ngày 31-3-1975 của Bộ Chính trị, số phận của ngụy quyền Sài Gòn đã được định đoạt.
2.3. Chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định được mang tên “chiến dịch Hồ Chí Minh ” (từ 26-4 đến 30-4-1975)
Sài Gòn là một thành phố lớn nhất ở miền Nam, lại là sào huyệt cuối cùng của một kẻ địch hết sức ngoan cố. Do vậy, chúng ta không thể chủ quan coi thường địch; chủ trương tập trung binh lực lớn cho chiến dịch có tính quyết định này.
Phương châm của chiến dịch là Thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng. Khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng! ” đã biến thành hiện thực ở thời điểm sôi động nhất này.
Ngay từ những ngày đầu tháng 4-1975, trên tất cả các nẻo đường của đất nước, đường bộ, đường sông, đường biển, đường sắt đều hết sức nhộn nhịp vì người và xe. Các loại máy bay vận tải, máy bay lên thẳng cũng được sử dụng để chở quân, chở đạn dược vào chiến trường trọng điểm. Hầu như toàn bộ lực lượng vận tải trên miền Bắc đều được huy động trong một chiến dịch chi viện lớn nhất từ trước tới nay.
Tại thành phố Sài Gòn lúc đó, thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Thành uỷ (12-4-1975), lực lượng cán bộ ở nội đô và ở vùng ven được tăng cường: trong nội thành, có gần 1.000 đảng viên và đoàn viên, ngoài ra còn hàng nghìn quần chúng nòng cốt và tích cực… Ngoài 3.345 dân quân, du kích, còn có 233 tự vệ mật. Bộ đội tập trung của thành có 2 trung đoàn và 5 tiểu đoàn; mỗi huyện cũng có từ 1 đến 2 đại đội; có 6 trung đoàn đặc công của trên đã ém sẵn các vị trí trong thành phố và các vùng ven…
Để đảm bảo cho chiến dịch toàn thắng, đồng thời bảo vệ được an toàn tính mạng của nhân dân và các công trình văn hoá, nghệ thuật…trong thành phố, chúng ta chủ trương đánh trúng vào 5 mục tiêu quan trọng nhất: Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu, Tổng Nha cảnh sát, Biệt khu Thủ đô và Sân bay Tân Sơn Nhất.
Các đơn vị lớn của ta trên các hướng tiến vào áp sát thành phố Sài Gòn – Gia Định đã lần lượt tiêu diệt các căn cứ phòng thủ từ xa của địch. Trong các trận đánh ấy, quan trọng nhất là trận đánh thị xã Xuân Lộc (Long Khánh), một vị trí án ngữ cửa ngõ phía đông thành phố Sài Gòn – Gia Định, nhằm tạo thế có lợi mở đường tiến công Sài Gòn.
Sáng 9-4-1975, quân ta nổ súng tiến công Xuân Lộc và tiểu khu Long Khánh. Cuộc chiến đấu diễn ra rất gay go, quyết liệt.
Ngày 16-4, căn cứ phòng thủ của địch ở Phan Rang bị phá vỡ, tỉnh Ninh Thuận được giải phóng. Thừa thắng, quân ta kết hợp với lực lượng quần chúng nổi dậy lần lượt giải phóng tỉnh Bình Thuận với thị xã Phan Thiết (19-4)… Quân ngụy lâm vào tình trạng nguy ngập thực sự. Sự sống còn chỉ có thể tính từng ngày, từng tuần, không thể tính từng tháng. Ngày 18-4, Tổng thống Mĩ ra lệnh di tản người Mĩ ra khỏi Sài Gòn. Ngày 20-4, quân địch ở Xuân Lộc buộc phải rút chạy, quân ta giải phóng tỉnh Long Khánh.
Chiến thắng Xuân lộc làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch ở xung quanh Sài Gòn, làm cho tinh thần quân ngụy càng thêm suy sụp. Ngày 21-4, theo “gợi ý” của Mĩ, Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng thống, Trần Văn Hương lên thay để có tính chất “hợp hiến”, nhưng chính là một bước để chuyển cho Dương Văn Minh, người mà chúng cho rằng ta có thể chấp nhận thương lượng.
Đến ngày 26-4, các quân đoàn chủ lực và binh khí kĩ thuật của ta đã có mặt tại các vị trí tập kết. Cùng ngày, Trần Văn Hương tuyên bố nhường chức Tổng thống cho Dương Văn Minh.
Đúng 17 giờ ngày 26-4, quân ta nổ súng tiến công vào tuyến phòng thủ của địch ở phía đông Sài Gòn, chính thức mở màn chiến dịch Hồ Chí Minh. Từ đó đến ngày 28-4, các binh đoàn chủ lực của ta lần lượt tiêu diệt các căn cứ phòng thủ vòng ngoài của địch, hình thành thế bao vây áp sát thành phố Sài Gòn – Gia Định. Cùng thời gian này, các đơn vị đặc công, biệt động và lực lượng vũ trang nội thành làm nhiệm vụ đánh địch, giữ các cấu vào thành phố, dẫn đường cho các binh đoàn đánh chiếm các mục tiêu đã định; đồng thời hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phối hợp với các cuộc tiến công quân sự.
Giữa lúc các cánh quân lớn của ta đang rầm rập tiến về Sài Gòn, vào lúc 17 giờ ngày 28-4, một phi đội mang tên “Quyết Thắng”, do Nguyễn Thành Trung chỉ huy, lái 5 chiếc máy bay A37 ném bom xuống Sân bay Tân Sơn Nhất, gây nỗi kinh hoàng trong quân ngụy.
Đêm 28 rạng 29-4-1975, quân ta thực hành tổng tiến công trên toàn mặt trận. Sau một ngày chiến đấu, quân ta phá vỡ và chiếm được các căn cứ vòng ngoài Sài Gòn – Gia Định, ngăn chặn và tiêu diệt các sư đoàn chủ lực ngụy, không cho chúng co về, đánh chiếm các bàn đạp để tiến vào nội thành.
Ngày 30-4, các binh đoàn chủ lực của ta tiến hành đột kích, kết hợp với các lực lượng bên trong, đánh chiếm các cơ quan trọng yếu trong guồng máy chiến tranh của ngụy quyền Sài Gòn.
Trước sự thất bại không tránh khỏi, Tổng thống ngụy Dương Văn Minh xin “ngừng bắn, điều đình để giao chính quyền”.
Quân và dân ta kiên quyết thi hành mệnh lệnh của Bộ Chính trị và Bộ chỉ huy Chiến dịch: “Tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch, tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh thành phố, tước vũ khí quân địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của địch”.
Vào lúc 10 giờ 45 phút ngày 30-4, binh đoàn hỗn hợp thuộc Quân đoàn II tiến vào Dinh Độc Lập, bắt tại chỗ toàn bộ ngụy quyền trung ương, buộc chúng tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, cờ cách mạng tung bay trên nóc Phủ Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Trên đà chiến thắng, từ ngày 30-4 đến ngày 1-5-1975, đồng bào và chiến sĩ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đồng loạt tiến công và nổi dậy, giành quyền làm chủ. Toàn bộ lãnh thổ trên đất liên của miền Nam được giải phóng.
Cùng với đất liền, ngày 30-4, các chiến sĩ yêu nước bị địch giam giữ tại nhà tù Côn Đảo nổi dậy giải phóng đảo. Ngày 2-5- 1975. Quân Giải phóng cùng nhân dân tiến công và nổi dậy giành quyền làm chủ hoàn toàn đảo Phú Quốc.
Trải qua gần hai tháng chiến đấu vô cùng anh dũng và sáng tạo của quân và dân ta, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã toàn thắng. Chúng ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 1,1 triệu quân ngụy do Mĩ trực tiếp tổ chức, trang bị và chỉ huy, làm tan rã toàn bộ lực lượng phòng vệ dân sự gồm hơn 1 triệu tên; đánh đổ toàn bộ hệ thống ngụy quyền các cấp mà Mĩ đã dày công xây dựng trong hơn 20 năm. Như vậy, mọi cơ đồ chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mĩ ở miền Nam nước ta bị quét sạch.
(Lytuong.net – Nguồn tài liệu: Nguyễn Xuân Minh, Lịch sử Việt Nam 1945-2000, NXB Giáo dục)