1. Một số nét khái quát về lịch sử và địa lý Ai Cập
Khoảng năm 3100 trước công nguyên, Ai Cập cổ đại đã ra đời ở vùng Đông bắc Châu Phi. Đây là quốc gia gần như sớm nhất được hình thành, nó nằm dọc theo hai bên bờ con sông Nil, dòng sông mang nước cho ruộng đồng, bùn đất của sông Nil có thể thai thác làm gạch, làm đồ gốm, dòng sông còn là nguồn giao thông quan trong của đất nước. Tháng 6 có mưa lớn ở vùng xích đạo, nước dòng sông lên cao tràn bờ, lúc nước rút để lại trên mặt đất lớp phù sa màu mỡ. Điều này tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển.
Ai Cập tiền sử chia làm hai phần: Thượng Ai Cập và Hạ Ai Cập.
Đến năm 3100 trước công nguyên thống nhất, đánh dấu bằng sự chinh phục của Pharaông Nácme. Lịch sử Ai Cập đã chứng kiến 3 giai đoạn hoàng kim, văn hoá nghệ thuật phát triển hơn. Cổ vương quốc (3100 – 2160 TCN), thời trung vương quốc (2133 – 1625 TCN), thời Tân quốc (1567 – 1085TCN) với các đời vua từ XVIII đến XX. Từ triều vua thứ XXI trở đi quyền lực của các vua Ai Cập bị sa sút rõ rệt, quốc gia lại bị chia thành nhiều quốc gia tự trị. Thời đại cuối cùng là Pôlêmê (Poléméc: 323 – 31 TCN).
Nền văn minh Ai Cập được hình thành và phát triển ngay từ thời kỳ đầu tiên. Lúc này mọi yếu tố như chữ viết, tôn giáo, văn hoá nghệ thuật, khoa học Ai Cập đã phát triển và hoàn thiện. Năm 1822, một nhà Ai Cập học người Pháp là Giăng Phờrăng xoa Sămpôli đã đọc được phần viết bằng chữ tượng hình Ai Cập trên tấm đá Rosette tìm thấy năm 1799. Từ đó giải mã được chữ tượng hình Ai Cập, và lịch sử mỹ thuật Ai Cập dần được hé mở.
Người Ai Cập có nhiều thành tựu về khoa học: Toán học, Thiên văn học, y học…. sớm phát triển. Về toán học đã sớm nghiên cứu về phương trình bậc nhất trong tri thức đại số, hình học đã biết các hình tam giác vuông, chữ nhật và số Pi (π = 3,1416), … dùng thước đo bằng gang tay, … Làm ra lịch, … Những thành tựu ấy đã giúp ta hiểu vì sao người Ai Cập lại có thể xây được các kim tự tháp lớn như các kim tự tháp còn tồn tại trên đất nước Hy lạp đến ngày nay.
Về tôn giáo, tín ngưỡng của người Ai Cập cổ đại: Họ thờ rất nhiều vị thần, tôn giáo đa thần giáo phát triển.
Các vị thần hầu hết là đại diện cho lực lượng siêu nhiên chi phối đời sống nông nghiệp như Thần mặt trời, Thần sông Nil, … và các thần động vật: Thần bò đực, Thần diều hâu, Thần cá sấu, … người Ai Cập còn có lòng tin vào sự bất diệt của linh hồn, do đó nghi lễ chôn cất của họ rất phức tạp. Vì quan niệm đó, hình thành tục ướp xác.
Tuy vậy với thủ tục và chi phí tốn kém nên hầu hết chỉ có các vua và những người có đủ tiền mới được ướp xác. Xác ướp sẽ được giữ gìn trong lăng mộ với kích thước đồ sộ, chất liệu bền vững là kim tự tháp. Tôn giáo, tín ngưỡng có ảnh hưởng đến đời sống, nghệ thuật của Ai Cập.
2. Nghệ thuật kiến trúc Ai Cập Cổ đại
Thời kỳ đầu tiên, các kim tự tháp xây bằng gạch có bậc thang. Trải qua thời gian phát triển, dần xuất hiện đá thay thế. Kim tự tháp đá được gọi là cổ nhất là của vua Giôxê (Djoser), do “Kiến trúc sư” Imhôtép, quan đại thần của vua thiết kế và xây dựng. Tháp được xây bằng đá, cao 60m, làm thành 6 bậc thang, những bậc này tượng trưng như những tầng bậc đưa linh hồn vua lên tới trời cao. Cạnh đáy khoảng 71m.
Từ nguyên mẫu kim tự tháp Giôxê, các lăng mộ sau này đều được xây dựng thành hình khối chóp, đáy là hình vuông, 4 mặt đều trơn nhẵn, không có bậc thang. Từ thời Tân quốc người Ai Cập không xây dựng các kim tự tháp ở giữa sa mạc, mà xây chúng trong thung lũng các vua và hoàng hậu.
Những ngôi đền thờ của Ai Cập được xây dựng với đồ án kiến trúc đơn giản gồm: cổng đền là một khối kiến trúc lớn được phủ đầy các hoa văn trang trí; Từ cổng vào đền chính điện ta phải đi trên con đường thần (thần đạo). Chính điện là một căn phòng lớn với những hàng cột bao quanh còn được gọi là phòng cột. Trên các di tích còn lại, cho thấy người Ai Cập thời cổ đại đã tạo ra nhiều kiểu dáng cột: cột hình bó sậy, hình hoa súng, hình cây Thốt Nốt, … Các đền thờ này được xây dựng ở hai bên bờ sông Nil, chủ yếu ở phía Nam như đền: Kác nác, Luxo, Abuximben… Kim tự tháp và đền thờ Ai Cập đều mang vẻ đẹp của sự đồ sộ, vững chắc và vĩnh hằng. Điều này bộc lộ một phần ở hình thức vĩ đại của các thể loại kiến trúc Ai Cập cổ đại.
3. Nghệ thuật Điêu khắc Ai Cập Cổ đại
Ở thời kỳ cổ đại, các loại hình nghệ thuật gắn bó với nhau rất chặt chẽ trong một tổng thể. Đi cùng với kiến trúc là điêu khắc, là tranh tường.
Điêu khắc và tranh vẽ làm đẹp, làm tăng ý nghĩa cho các công trình kiến trúc. Vì vậy, cùng với hai loại kiến trúc lăng mộ và đền miếu thờ. Bên cạnh các kim tự tháp có rất nhiều tượng nhân sư đầu người mình sư tử. Thần thoại có bao nhiêu thần thì người Ai Cập cũng nghĩ ra bấy nhiêu hình thức thể hiện các vị thần ấy. Thường thì họ ghép hai yếu tố người và thú với nhau để tạo ra một hình tượng linh thiêng như tượng nhân sư, …đầu chó mình người, chim ưng, ….
Trong các ngôi mộ đều có đặt tượng chân dung của chủ nhân các ngôi mộ. Tượng này có thể thay thế cho xác chết, làm cho linh hồn tồn tại, vì vậy tượng được làm giống thực tối đa.
Phong cách tả thực nổi rõ trong điêu khắc thời cổ vương quốc. Kiểu người nông nghiệp thô đậm. Sang thời kỳ trung và nhất là thời kỳ tân vương quốc tính chất trọng thực trong điêu khắc Ai Cập đã giảm bớt. Tỷ lệ các pho tượng được kéo dài, tạo dáng thanh mảnh hơn cho tượng. Cái đẹp, mềm mại, duyên dáng được đưa vào điêu khắc. Tượng đặt ở lăng mộ hay đền thờ đều có kích thước tương ứng với kích thước ở đền hay kim tự tháp.
Một thể loại khác của điêu khắc là phù điêu. Trong nghệ thuật Ai Cập phù điêu rất phát triển. Hình tượng người, thần, … trong phù điêu được thể hiện theo những ước lệ tạo hình. Hình tượng nhân vật được diễn tả ở nhiều điểm nhìn khác nhau biểu hiện ở một hình nhưng đầu mặt nhìn nghiêng, mắt và vai luôn hướng ở chính diện, bàn chân nhìn nghiêng, ….
Sự kết hợp đó đã tạo nên những hình tượng rất đặc biệt, mang đặc điểm của nghệ thuật Ai Cập. Nó đã khiến cho nghệ thuật Ai Cập mang tính dân tộc và không giống cách tạo hình của dân tộc nào trên thế giới.
Như vậy, nghệ thuật điêu khắc Ai Cập vừa mang tính hiện thực, vừa mang tính ước lệ và chịu ảnh hưởng của tư tưởng thần bí, tôn giáo.
4. Nghệ thuật Bích hoạ Ai Cập Cổ đại
Ngay từ thời kỳ cổ vương quốc, bên cạnh những bức chạm nổi có tô màu còn có nhiều tranh vẽ trên tường (bích hoạ). Trong các bức tranh này ngoại trừ tính ước lệ trong cách tạo hình như đã đề cập ở nghệ thuật điêu khắc tất cả các yếu tố khác đều đạt tới vẻ đẹp hoàn thiện. Màu sắc trong sáng, tươi tắn với những nhịp điệu phong phú của mảng sáng tối, đậm nhạt, của màu sắc và của đường nét. Hình tượng các con vật được diễn tả tỉ mỉ, chính xác và hài hoà đến đáng khâm phục. Tuy vậy những bức tranh tường này vẫn bộc lộ cảm xúc sâu sắc của các tác giả khi vẽ tranh. Tính khoa học rất cao trong nghệ thuật tranh tường song không thô cứng mà vẫn rất mềm mại, giàu sức sống động. Nội dung được chuyển tải là tôn giáo, là các cuộc tế lễ, cầu đảo, hoặc sinh hoạt của con người rất phong phú.
5. Một số tác phẩm và công trình nghệ thuật tiêu biểu
5.1. Kim tự tháp Kê ốp (Chéops)
Nằm ở phía Tây sông Nil, bên sa mạc Ghida (Ghiga) ngày nay, còn sừng sững ba kim tự tháp: Kim tự tháp Kê ốp (Kheops), Kêphren và Mykênrinốt. Trong số đó kim tự tháp Kê ốp lớn nhất. Nó được xếp vào một trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại. Đây là lăng mộ xây cho vua Kê ốp, ông vua thứ hai của vương triều IV khoảng giữa năm 2650 TCN. Kim tự tháp Kê ốp cao 137m, do 225 vạn tảng đá vôi xây nên, Mỗi tảng đá nặng từ 2 – 2,5 tấn, tảng lớn nhất nặng 15,25 tấn. Đỉnh kim tự tháp là một hình vuông bằng phẳng không có dấu hiệu của sự dở dang hay sói mòn. Hình vuông ấy có kích thước mỗi cạnh 10m, được lát bằng 9 phiến đá vuông.
Theo các nhà khoa học trong kim tự tháp Kê ốp có 1/5 thể tích là những khoang trống có chứa cát. Bốn mặt của kim tự tháp theo bốn hướng Bắc, Nam, Đông, Tây. Người Ai Cập vẫn coi kim tự tháp là cái la bàn khổng lồ. Cho đến ngày nay, với khoa học kỹ thuật phát triển người ta vẫn còn ngạc nhiên về tài xây dựng kim tự tháp của người Ai Cập cổ. Theo cách hiểu thông thường thì kim tự tháp là lăng mộ của các Pharaông Ai Cập. Tuy vậy đến nay cũng chưa phát được thi thể của các vua. Bằng cách nào có thể đưa những phiến đá nặng lên cao 140m như vậy? Việc khai thác đá, vận chuyển đá đến nơi làm kim tự tháp đã có thể coi là một kỳ công. Họ còn phải đẽo các phiến đá, mài nhẵn để có thể xếp lên nhau cho thật khít, các tảng đá được xếp lên nhau, hầu như không có kẽ hở, không có vật liệu kết dính, ấy vậy mà các lăng mộ vĩ đại ấy vẫn sừng sững tồn tại đến ngày nay.
Bên cạnh kim tự tháp Kê ốp còn có kim tự tháp Kêphren và kim tự tháp Mykêrinốt có hình dáng tương tự, nhưng nhỏ hơn. Kêphren có cạnh đáy khoảng 215m, cao 134m. Mykêrinốt là nhỏ nhất, cạnh đáy khoảng 105m, cao khoảng 60m.
Kim tự tháp là công trình kiến trúc tiêu biểu thể hiện tài năng của người Ai Cập. Đồng thời nó cũng thể hiện quyền lực rất lớn của Pharaông Ai Cập. Tuy vậy để có được công trình đó phải có sự hy sinh của bao nhiêu nô lệ. Đứng về mặt lịch sử nó là lăng của các Pharaông Ai Cập. Nhưng đồng thời về mặt nào đó, nó như một đài kỷ niệm một lời nhắc nhủ đến mai sau về sức lao động sáng tạo, bền bỉ của người Ai Cập thời cổ đại.
5.2. Lăng Vua Tút tan kha môn (Tutankhamun)
Do quan niệm của người Ai Cập về sự vĩnh hằng, về thế giới bên kia, nên các ngôi mộ của Pharaông còn là nơi chứa nhiều đồ quý giá. Nó làm tăng ham muốn chiếm kho báu, dẫn đến nhiều vụ cướp phá những ngôi mộ xảy ra. Ngày 26/11/1922, nhà khảo cổ học Hô uốt Các tơ (Howard carter) là người phát hiện ra ngôi mộ còn nguyên vẹn của ông vua trẻ Tút tan kha môn, qua đó cho ta biết về nghi thức tang lễ của thời Tân vương quốc.
Lăng của Tút tan kha môn gồm nhiều căn phòng được bịt kín bằng gạch. Có lẽ sau khi tiến hành tang lễ người ta bắt đầu xây kín các cửa thông các gian phòng với nhau. Khi khai quật mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn. Người ta đã phát hiện ra một chiếc quan tài bằng đá rất lớn trong đó có 3 quan tài khác bằng vàng, cái nọ lồng trong cái kia. Khoảng trống giữa các lớp quan tài là nước thơm đã đông cứng. Xác của Pharaông còn nguyên vẹn.
5.3. Tượng Nhân sư (Sphinx).
Bên cạnh lăng Kêphren ở Ghi – da có một bức tượng lớn. Tượng đầu người mình sư tử. Tượng cao 20m, dài gần 60m. Hình tượng nhân sư là hình tượng mang tính chất thần bí, biểu hiện sức mạnh vô địch. Sức mạnh được tạo bởi quyền lực của nhà vua và sức mạnh thể chất của chúa sơn lâm. Đó cũng là sự kết hợp giữa trí tuệ và hành động. Tượng được làm bằng đá khối. Hơn ba ngàn năm trôi qua, tượng nhân sư đã được tu sửa rất nhiều lần.
5.4. Tượng Viên thư lại Kai
Ở Ai Cập nghề được coi trọng và ngưỡng mộ là nghề viết chữ. Thư lại là người rất quan trọng và có nhiều nhiệm vụ: có thể giữ hồ sơ thuế, các vụ xét xử và nhiều loại văn bản khác.
5.5. Tượng ông xã trưởng Bolét – gỗ (khoảng 4500 năm)
Khí hậu Ai Cập khô, nóng, độ ẩm thấp. Vì vậy ngay cả chất liệu gỗ cũng bền vững với thời gian. Tượng ông xã trưởng là pho tượng gỗ cổ nhất Ai Cập còn lại đến ngày nay. Tượng được diễn tả trong tư thế đang bước đi, tay trái chống gậy, mắt nhìn thẳng. Khối căng tròn, thể hiện người đẫy đà, thô, mập theo kiểu người làm nghề nông. Riêng đôi mắt, để tăng thêm phần sống động, người Ai Cập cổ đã nghĩ ra kỹ thuật gắn bột thuỷ tinh.
Tượng vua Rahôtép và vợ là hoàng hậu Nophre (cuối triều vua thứ III). Nhìn thẳng hai pho tượng được làm theo nguyên tắc nhìn ngay ngó thẳng của Ai Cập. Cả hai pho tượng đều được tạc từ khối đá nguyên, ngồi tĩnh lặng, tay bó vào thân. Tượng được tô màu: Vua màu đậm, hoàng hậu mắt sáng hơn. Mắt được khảm và vẽ đậm, trông giống như người thật. Nhìn nghiêng ta có thể cảm nhận được sức sống tràn trề trên hai cơ thể, chất da thịt sống động gợi cảm.
Nói đến nghệ thuật điêu khắc Ai Cập, không thể bỏ qua tượng hoàng hậu Nephéctiti vợ vua Akhênatôn. Nhiều tượng chân dung của bà được giữ đến ngày nay, đã đánh dấu sự chuyển biến trong phong cách nghệ thuật Ai Cập. Tượng mang nhiều chất hiện thực, sống động, bớt vẽ trang nghiêm, quy tắc như thời cổ vương quốc.
5.6. Bức chạm gỗ mạ vàng
Mặt sau chiếc ngai trong mộ diễn tả cảnh Pharaôn Túttankhamôn và vợ (Khoảng 1350 TCN) Túttankhamôn là người kế vị ngai vàng Akhênatôn, ông lên ngôi từ bé và mất sớm. Lăng mộ của ông là một trong những lăng mộ đẹp nhất của Ai Cập. Trong lăng của ông khi khai quật, các nhà khảo cổ học đã thu được nhiều hiện vật. Người ta đem chúng về và trưng bày trong 11 văn phòng lớn ở bảo tàng Cairô mới hết. Trong đó có chiếc ngai, mặt sau ngai có bức chạm gỗ, được sơn mạ vàng, nó diễn tả cảnh vua và hoàng hậu. Từ dáng ngồi của nhà vua, đến cách tạo hình và bộ lộ tình cảm của hoàng hậu ta đã thấy có sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật cũng như quan niệm sống của người Ai Cập. Tỉ lệ của hoàng hậu không nhỏ hơn vua. Trên đầu họ là thần mặt trời hiện diện là một quả cầu vàng, với những tia sáng là những cánh tay nhỏ vươn xuống chúc phúc cho 2 người. Các bức chạm khối nổi nhẹ nhàng, đường nét mềm mại, tỉ lệ tương đối cân đối, hài hoà. Hình tượng nhân vật đã bớt nặng nề và mang tính chất hiện thực phóng khoáng hơn thời kỳ trước.
5.7. Bích hoạ Ai Cập
Tác phẩm: “Cuốn sách của người chết” được vẽ trong mộ của một viên quản gia kiêm thư lại của Hoàng gia thuộc vương triều thứ 19 (1320 – 1290 TCN). Một sự kết hợp tuyệt vời của đường nét và màu sắc trong tranh. Tác giả đã chỉ cho người chết con đường, cách thức để đi tới thế giới vĩnh cửu của thần Ôdirít.
Toàn bộ tranh được chia làm 3 phần: Phía trên là các vị thần thẩm định, mỗi vị đại diện cho một quận của Ai Cập. Phía dưới là người chết được thần ướp xác Amubít dẫn đường. Nội dung chính trong bức tranh này thể hiện người chết sẽ nhận được sự phê chuẩn của thần trí tuệ. Cuối cùng thần Amubít sẽ đưa người đó đến thần Ôdirít, người cai quản dưới lòng đất.
Tranh vẽ toàn mảng bẹt, phẳng. Cái đẹp ở đây là nhịp điệu của mảng trắng, đậm trong tranh, sự kết hợp giữa hình và chữ.
Tranh “Săn chim”: Nhân vật trong tranh được vẽ với tỷ lệ lớn nhất, nhỏ hơn là vợ và con gái anh ta. Tỷ lệ của các nhân vật được thể hiện theo chỗ đứng, địa vị của nhân vật trong xã hội, tôn giáo, hoặc gia đình.
Người Ai Cập chưa diễn tả nhân vật theo như luật xa gần. Họ có quan niệm riêng, mang tính dân tộc đậm nét. Tác giả đã rất giỏi khi thể hiện một cách chính xác cây, hoa đặc trưng của Ai Cập và các giống thú, chim, bướm, … màu sắc tươi sáng, nhẹ nhàng.
Những bức tranh này còn biểu hiện sự tuyệt vời về đường nét trong tác phẩm.
Chạm gỗ nắp quan tài, Sách của người chết, Bên phải, tranh dưới: Săn chim
5.8. Đền Kác nác (Karnak) thờ thần Mặt trời A.Mon
Là một trong những ngôi đền đẹp nhất của Ai Cập cổ đại, được xây dựng trong thời kỳ Tân vương quốc. Theo cấu trúc chung của các đền miếu thờ ở Ai Cập.
Phía bên ngoài là cổng đền: thường là cột tháp với những bức tường hai bên. Đi qua sân rộng hình chữ nhật là phòng cột đỡ trần nhà, có mái che. Sau cùng là hậu cung. Phòng chính trong đến Kác nác có diện tích khoảng 5000m2 với 16 hàng cột đỡ trần nhà, gồm 134 cột đá lớn, …
Qua một vài kích thước cụ thể như vậy ta thấy vẻ đẹp hùng vĩ của kiến trúc đền thờ Ai Cập.
Trên các cây cột có khắc đầy các hình vẽ, trên cổng đền, ở mọi chỗ trên kiến trúc là những phù điêu chạm nổi kẻ vẽ các cuộc chinh chiến của nhà vua. Nói liền đền Kác nác với đền Lu xô là hai dãy tượng Xphanh đấu cừu kéo dài trên 2000m.
6. Đặc điểm của mỹ thuật Ai Cập cổ đại
Mỹ thuật Ai Cập cổ đại suốt 3000 năm tồn tại không có những biến động lớn. Ngay từ thời cổ vương quốc nghệ thuật dã có những thành tựu đáng khâm phục ở mọi lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ. Sở dĩ như vậy vì trong nghệ thuật người Ai Cập có những quan niệm, những quy định, các nghệ sĩ khi sáng tác phải tuân thủ nghiêm ngặt. Vì vậy tính chất dân tộc thể hiện đậm nét trong các loại hình nghệ thuật Ai Cập cổ đại. Điều đó góp phần hình thành một số đặc điểm chúng cho nghệ thuật tạo hình.
Nghệ thuật Ai Cập luôn hướng tới sự vĩnh hằng, sự trường tồn. Điều này thể hiện trong kiến trúc, điêu khắc và bích hoạ. Các tác phẩm nghệ thuật của Ai Cập được làm bằng chất liệu bền vững và chúng tồn tại cho tới tận ngày hôm nay. Quan niệm, lòng tin vào sự bất diệt của linh hồn đã chi phối mạnh mẽ tới nghệ thuật tạo hình và tạo ra những tác phẩm nghệ thuật bất hủ, xứng đáng là một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại.
Nghệ thuật Ai Cập mang nặng tính chất tôn giáo. Thông qua các phần còn lại ta thấy các nghệ sĩ Ai Cập đã rất ưu tiên đề tài tôn giáo, tín ngưỡng.
Bị ảnh hưởng của thần thoại, tôn giáo họ đã sáng tác ra nhiều hình tượng thần bí, siêu thực như hình tượng các vị thần đầu thú mình người, tượng nhân sư đầu người mình sư tử. Chính đặc điểm thứ nhất đã tạo ra tiền đề nảy sinh đặc điểm thứ hai.
Những ước lệ tạo hình cổ sơ đã chi phối nghệ thuật Ai Cập trong hai lĩnh vực điêu khắc (phù điêu) và bích hoạ. Các hình tượng phù điêu và bích hoạ Ai Cập đã được thể hiện hoặc nhìn chính diện nghiêm trang, ngay ngắn hoặc là sự kết hợp của đầu mặt nghiêng, thân thẳng chân nghiêng. Hai bàn chân nhìn nghiêng và được nhìn từ phía ngón cái là một đặc điểm đặc biệt trong các hình tượng phù điêu và bích hoạ Ai Cập.
Sở dĩ người Ai Cập tạo hình như vậy vì họ quan niệm về sự toàn vẹn của hình tượng. Họ muốn trên một hình tượng nhưng có thể nhìn thấy nhân vật ở tất cả các hướng. Mặt khác các hướng chọn để diễn tả phải là hướng mà các đặc điểm được thể hiện rõ đặc trưng nhất. Ví dụ con mắt nhìn nghiêng không cho thấy rõ “mắt” bằng con mắt nhìn thẳng; Bàn chân nhìn từ phía ngón cái và nghiêng có đặc điểm hơn, … Như vậy người Ai Cập đã rất khéo chọn lựa và khéo sắp xếp. Nhìn thoáng qua ta thấy hình vẽ Ai Cập có dạng vặn và nhiều chi tiết tưởng như không hợp lý phải nghiên cứu kỹ mới thấy sự sáng tạo và tài năng của người Ai Cập khi tạo hình. Như vậy mới có cái nhìn đúng đắng về giá trị của nghệ thuật Ai Cập.
Trong nghệ thuật Ai Cập, các loại hình nghệ thuật như kiến trúc, điêu khắc, bích hoạ luôn gắn bó với nhau. Nghệ thuật Ai Cập là nghệ thuật tổng hợp trong đó kiến trúc phát triển sớm nhất và mạnh nhất. Điêu khắc và tranh vẽ gắn với kiến trúc. Tất cả đều thống nhất phong cách và hoà hợp trong một tổng thể hoàn chỉnh.Tất cả những đặc điểm trên đã kết hợp nhuần nhuyễn với nhau tạo ra sự độc đáo, riêng biệt cho nghệ thuật tạo hình Ai Cập. Tuy nó bị chi phối bởi tôn giáo, bởi ý tưởng về sự vĩnh hằng, hay siêu hình thần bí thì nghệ thuật Ai Cập vẫn rất phong phú về thể loại.
Những ước lệ tạo hình cổ sơ mặc dù theo các nghệ sĩ suốt trong quá trình sáng tạo và phát triển. Nhưng không vì thế mà nghệ thuật Ai Cập đơn điệu và không thay đổi. Trái lại phong cách nghệ thuật Ai Cập mặc dù vẫn thống nhất nhưng vẫn có sự chuyển biến phong cách qua các thời kỳ từ cổ đến trung và tân vương quốc. Có một điều chắc chắn rằng, nghệ thuật Ai Cập thống nhất và phát triển theo một hướng đi riêng, có thay đổi song vẫn giữ được đặc điểm, quan niệm tạo hình của mình.
Nghệ thuật Ai Cập là một nền nghệ thuật sáng tạo, để lại nhiều thành tựu, kỳ quan cho thế giới và mang đậm sắc thái dần .
Ai cập xứng đáng là cái nôi đầu tiên của văn minh nhân loại như người ta vẫn đánh giá từ nhiều thế kỷ trước.
(Nguồn tham khảo: Giáo trình Lịch sử Mỹ thuật thế giới)