Việt Nam có một nền văn hóa phong phú, đa dạng và được thể hiện qua: tổ chức xã hội, phong tục, lễ hội, ẩm thực, trang phục, tín ngưỡng, tôn giáo, ngôn ngữ, văn học và nghệ thuật.
1. Tổ chức xã hội
Từ ngàn năm nay, hai đơn vị xã hội quan trọng nhất trong văn hóa Việt Nam là Làng (thôn) và Nước (quốc gia). Tục ngữ Việt Nam có câu “Làng đi đôi với nước”, “Phép Vua thua lệ Làng”, với các biểu tượng đặc trưng của mỗi làng Việt là cổng làng, đình làng, cây đa, giếng nước … Cùng với làng, quan hệ họ hàng đóng vai trò quan trọng ở Việt Nam với trọng tâm đặt vào gia tộc và sau đó là gia đình. Điều này thể hiện ở sự tồn tại của mô hình gia đình mở rộng gồm ba hay bốn thế hệ sống dưới một mái nhà, hiện vẫn còn rất phổ biến ở các vùng nông thôn Việt Nam.
Tầm quan trọng của mối quan hệ họ hàng trong xã hội đã tạo ra một hệ thống phân cấp phức tạp các mối quan hệ. Mặc dù trong văn hóa Việt Nam, người ít tuổi phải tôn trọng và kính trọng người nhiều tuổi hơn nhưng nếu xét trong quan hệ họ hàng, người (mặc dù ít tuổi hơn) nhưng có vị trí cao hơn trong hệ thống phân cấp của gia đình, dòng họ được người (mặc dù lớn tuổi hơn) nhưng ở vị trí thấp hơn trong phân cấp gia đình, dòng họ tôn trọng như một người lớn tuổi hơn mình. Mối quan hệ và phân cấp đó sẽ tiếp tục kéo dài từ thế hệ này tới thế hệ khác. Vì vậy, việc một ông lão 60 tuổi phải cung kính với một thanh niên 25 tuổi như cung kính với bậc cha, chú mình không phải là chuyện lạ. Hệ thống phức tạp của các mối quan hệ được chuyển tải thông qua việc sử dụng rộng rãi của các đại từ khác nhau trong tiếng Việt. Xưng hô trong tiếng Việt đã trở thành một đặc trưng của văn hóa Việt Nam.
2. Ngôn ngữ Việt Nam
Ngôn ngữ Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Các nhà dân tộc học đã chia các dân tộc ở Việt Nam thành 8 nhóm ngôn ngữ:
- Nhóm Việt – Mường: gồm người Việt, người Mường, người Chứt, người Thổ.
- Nhóm Tày – Thái: gồm người Tày, Thái, Nùng, Bố Y, Sán Chay, Lào, …
- Nhóm Dao – Hmông: gồm người Hmông, Dao, Pà Thẻn, …
- Nhóm Tạng – Miến: gồm người Hà Nhì, Lô Lô, Si La, La Hủ, …
- Nhóm Hán: gồm người Hoa, Sán Dìu, Ngái, …
- Nhóm Môn – Khmer: gồm người Khmer, Kháng, Hrê, Xơ Đăng, Ba Na, Khơ Mú, Cơ Ho, Mạ, Xinh Mun, …
- Nhóm Mã Lai – Đa đảo: gồm người Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Ra Glai, Chu Ru, …
- Nhóm hỗn hợp Nam Á: gồm la Chí, La Ha, Pu Chéo, Cơ Lao, …
Tiếng Việt thuộc về ngôn ngữ Việt – Mường, hiện nay là quốc ngữ, là ngôn ngữ hành chính chung của 54 dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Mặc dù là ngôn ngữ chung của người Việt nhưng tiếng Việt có sự khác biệt về ngữ âm và từ vựng khi sử dụng ở các vùng miền khác nhau. Do vậy, phương ngữ tiếng Việt được phân chia làm nhiều vùng phương ngữ khác nhau từ miền Bắc, miền Trung và miền Nam.
Tiếng Việt hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu, tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu, có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và thỏa mãn yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử.
3. Tín ngưỡng
3.1. Tín ngưỡng sùng bái con người
Thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ người đã mất là một tục lệ lâu đời của người Việt và một số dân tộc khác. Họ tin rằng linh hồn của tổ tiên cũng ở bên cạnh con cháu và phù hộ cho họ. Chính vì vậy, gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên và bàn thờ được đặt ở nơi trang trọng nhất trong nhà. Ngoài các ngày giỗ, tết, vào các ngày Mùng một và ngày Rằm (ngày đầu tiên và ngày 15 của các tháng Âm lịch), thắp hương trở thành hình thức thông báo với tổ tiên ông bà. Nói đến tục thờ cúng tổ tiên, người ta đều biết tới một ngày giỗ tổ chung của người Việt – ngày giỗ tổ Hùng Vương vào ngày 10 tháng 3 (Âm lịch) hàng năm.
Bên cạnh thờ cúng tổ tiên, người Việt còn thờ các vị thần gắn với đời sống tinh thần của họ. Người Việt thờ Thổ Công, Thành Hoàng, các vị anh hùng dân tộc … Các vị thần đó là những vị thần cai quản gia đình, làng xã hoặc là những vị thần có công lớn với đất nước, với làng xã. Dân chúng thờ các vị thần này để tỏ lòng biết ơn và cầu mong các vị phù hộ cho mình.
3.2. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
Người xưa thờ rất nhiều thần, nguyên thủy họ thờ thần Mặt Trời, thần Mặt Trăng, thần Đất, thần Sông, thần Biển, thần Sấm, thần Mưa,… những vị thần gắn với những ước mơ thiết thực của cuộc sống người dân nông nghiệp. Đi sâu vào cuộc sống hàng ngày, họ thờ thần Nông là thần trông coi việc đồng áng, thần Lúa, thần Ngô với hy vọng lúc nào ngô lúa cũng đầy đủ. Không chỉ thờ các vị thần gắn với đời sống vật chất, người dân còn thờ động vật và thực vật như Chim, Rắn, Cá Sấu, Rồng, cây Đa, cây Dâu …
3.3. Tín ngưỡng phồn thực
Ở Việt Nam, tín ngưỡng phồn thực bao gồm thờ cơ quan sinh dục và thờ hành vi giao phối.
Việc thờ cơ quan sinh dục nam, nữ được gọi là thờ sinh thực khí. Hình nam, nữ với bộ phận sinh dục phóng to được tìm thấy ở nhiều nơi như Văn Điển (Hà Nội), thung lũng Sa Pa (Lào Cai), nhà mồ Tây Nguyên … Ở Phú Thọ, Hà Tĩnh và nhiều nơi khác có tục thờ cúng nõ (cái nêm, tượng trưng cho sinh thực khí nam), nường (mo nang, tượng trưng cho sinh thực khí nữ). Việc thờ sinh thực khí còn thể hiện ở việc thờ các loại cột đá (tự nhiên hoặc được tạc ra) và các loại hốc (hốc cây, hốc đá, kẽ nứt trên đá).
Bên cạnh thờ sinh thực khí, người Việt còn có tục thờ hành vi giao phối. Tục này được thể hiện ở trên một số tác phẩm điêu khắc, nghệ thuật; ở một số các công trình kiến trúc và lễ hội. Trên nắp đồng tìm được ở làng Đào Thịnh (Yên Bái) với niên đại khoảng 500 năm trước Công Nguyên xung quanh hình mặt trời là tượng bốn đôi nam nữ đang giao phối. Ở các nhà mồ Tây Nguyên, hiện người ta vẫn dựng tượng nam nữ giao phối với bộ phận sinh dục phóng to. Vào dịp hội đền Hùng, ở vùng đất Tổ, thanh niên nam, nữ vẫn thực hiện điệu múa “tùng dí” với những vật biểu trưng cho sinh thực khí nam, nữ cầm trong tay.
4. Tôn giáo
Trong suốt chiều dài lịch sử, văn hóa Việt Nam luôn có sự giao lưu với văn hóa của nhiều quốc gia khác. Trong quá trình giao lưu này, nhiều tôn giáo ngoại sinh đã du nhập vào Việt Nam. Vì vậy, ở Việt Nam, hầu hết các tôn giáo mang tính toàn cầu hay khu vực như: Khổng giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo … Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có những tôn giáo ra đời và phát triển trong lòng dân tộc như: Cao Đài, Hòa Hảo. Hiện nay, Việt Nam hiện có 06 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài và Hoà Hảo.
Người Việt Nam thường tìm đến với tôn giáo như một chỗ dựa về tinh thần, một sự giải thoát và một niềm hy vọng. Vì vậy, người Việt Nam không khắt khe trong việc tiếp nhận các tôn giáo. Bên cạnh đó, các tôn giáo ngoại sinh khi du nhập vào Việt Nam đều chịu một phần ảnh hưởng của văn hóa Việt Nam và ít nhiều được Việt Nam hóa. Về cơ bản, người Việt Nam giàu tính khoan dung nên có sự hòa hợp giữa các tôn giáo. Nhìn một cách toàn diện, các tôn giáo ở Việt Nam có sự hòa hợp, cùng tồn tại và cùng phát triển.
Trải qua hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, đời sống tinh thần nói chung của người dân Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa. Đạo giáo và Nho giáo có nguồn gốc từ Trung Quốc và thâm nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu Công Nguyên qua tầng lớp thống trị người Trung Hoa.
Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ và có hai phái chính đã du nhập vào Việt Nam bằng hai ngả khác nhau: phái Đại thừa vào Việt Nam qua Trung Quốc cùng với Đạo giáo và Nho giáo, phái Tiểu thừa qua các nước Đông Nam Á láng giềng vào Việt Nam ở phía Nam.
Công giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 16. Tuy việc truyền đạo lúc bấy giờ gặp nhiều khó khăn nhưng ở Việt Nam từ lúc đầu cũng đã có một số lượng người theo Công giáo. Từ cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược hoàn toàn Việt Nam, việc truyền đạo được tự do dễ dàng. Cùng với Công giáo, một hệ phái khác của đạo Cơ đốc là Tin Lành cũng xâm nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XX.
Đạo Hồi là tôn giáo của một bộ phận người Chăm ở Việt Nam. Đạo Hồi được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 15 tại vương quốc Chăm Pa, sau đó theo chân một bộ phận người Chăm di cư tới vùng An Giang, Tây Ninh vào thế kỷ XIX.
Ngoài các tôn giáo du nhập từ bên ngoài, các tôn giáo Hoà Hảo và Cao Đài là hai tôn giáo bản địa của Việt Nam. Đạo Hoà Hảo được sáng lập từ năm 1939 và đạo Cao Đài được sáng lập từ năm 1926. Hiện nay, hai tôn giáo bản địa này phát triển mạnh khắp Nam Bộ, một số tỉnh ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
5. Lễ hội
Nghề trồng lúa nước mang tính thời vụ cao, có những lúc người dân rất bận rộn nhưng cũng có những lúc nông nhàn. Vào những lúc nông nhàn, người nông dân thường tổ chức rất nhiều lễ tết và hội hè.
Trong lễ hội, các lễ nghi tín ngưỡng, các phong tục tập quán, các thể lệ và hình thức sinh hoạt của cộng đồng được tái hiện rất sinh động. Lễ hội luôn bao gồm hai phần: “Lễ” và “Hội”. “Lễ” là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trong cuộc sống. “Hội” là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống. Lễ hội được tổ chức vào những thời điểm khác nhau trong năm, tuỳ thuộc vào phong tục, tập quán của từng dân tộc. Lễ hội được tổ chức nhiều nhất vào mùa Xuân.
Việt Nam có nhiều loại lễ hội lớn và long trọng như lễ tế các thần linh, các lễ hội nhằm tưởng nhớ tới công ơn tổ tiên, nòi giống như hội Đền Hùng; những lễ hội tưởng nhớ tới các anh hùng như hội Đền Mẫu Đợi, hội Gióng, hội Đền Kiếp Bạc, hội Đống Đa; những lễ hội tưởng nhớ người có công mở mang bờ cõi, các ông tổ các ngành nghề … của người Việt. Bên cạnh các lễ hội lớn của người Việt, các dân tộc khác cũng có những lễ hội lớn như lễ hội Katê của người Chăm, lễ cúng Trăng của người Khmer, lễ hội xuống Đồng của người Tày, người Nùng …
Cùng với các lễ hội dân gian, các lễ hội của các tôn giáo ban đầu chỉ mang ý nghĩa nội bộ nhưng theo thời gian các lễ hội đó lan sang các tầng lớp xã hội khác và thành những lễ hội mang tính cộng đồng như lễ Phật đản của Phật giáo và lễ Noel của Công giáo.
6. Ẩm thực
Người Việt Nam thường coi trọng việc ăn uống: “Có thực mới vực được đạo”; “Trời đánh tránh bữa ăn”. Mọi hành động của người Việt Nam đều lấy “ăn” làm đầu như: ăn uống, ăn ở, ăn chơi, ăn mặc,…
Cơ cấu bữa ăn của người Việt Nam bộc lộ rõ dấu ấn của truyền thống văn hóa nông nghiệp lúa nước với một cơ cấu ăn thiên về thực vật mà đứng đầu là LÚA GẠO rồi tới RAU QUẢ, thứ ba là THỦY SẢN và cuối cùng là THỊT.
Ẩm thực Việt Nam có tính tổng hợp cao, thể hiện qua cách chế biến đồ ăn, với sự tổng hợp của các loại rau, giữa rau với gia vị, rau quả với cá, tôm… để đảm bảo có được ngũ chất (bột – nước – khoáng – đạm – béo), ngũ vị (chua – cay – mặn – ngọt – đắng), ngũ sắc (trắng – xanh – vàng – đỏ – đen). Tính tổng hợp còn thể hiện qua cách ăn, với sự xuất hiện của nhiều món ăn, với nhiều cách chế biến khác nhau trên mâm, với việc sử dụng đầy đủ các giác quan trong khi ăn, với sự cầu kỳ trong lựa chọn và kết hợp giữa thức ăn với thời tiết, chỗ ăn, người ăn cùng và không khí bữa ăn. Chính tính tổng hợp này kéo theo tính cộng đồng, một nét độc đặc trưng của ẩm thực Việt Nam, với việc ăn chung, ưa thích trò chuyện trong khi ăn, để ý tới lượng thức ăn có trên mâm để điều chỉnh mức ăn của mình cho phù hợp.
Trong ăn uống, người Việt Nam chú trọng tới quan hệ biện chứng âm – dương trong phối hợp giữa các món ăn với nhau để đảm bảo cân bằng âm – dương của món ăn, trong lựa chọn món ăn theo từng thời tiết và khu vực khác nhau để đảm bảo cân bằng âm – dương giữa con người với môi trường tự nhiên, trong lựa chọn món ăn với tình trạng cơ thể và điều kiện sức khỏe để đảm bảo sự quân bình âm – dương trong cơ thể.
7. Trang phục
Trang phục giúp người Việt Nam thích nghi với môi trường tự nhiên và thể hiện lễ nghi trong giao tiếp xã hội. Với những mục đích trên, nét độc đáo trong trang phục của người Việt Nam thể hiện qua chất liệu may mặc, với những chất liệu có nguồn gốc thực vật vừa là sản phẩm của nghề trồng trọt, vừa là những chất liệu may mặc mỏng, nhẹ, thoáng rất phù hợp với điều kiện thời tiết ở Việt Nam. Chất liệu phổ biến được dùng ở Việt Nam là tơ tằm, ngoài ra còn có tơ chuối, tơ đay, gai và sợi bông.
Trang phục Việt Nam rất đa dạng nhưng các trang phục truyền thống chủ yếu được thiết kế phù hợp với công việc trồng lúa nước và khí hậu nóng bức với quần ống rộng cho nam, váy cho nữ, những loại trang phục vừa thoáng mát vừa tiện khi làm việc. Ở phía trên là áo ngắn có hai túi phía dưới.
Một trong những y phục cổ xưa nhất được người phụ nữ mặc cho đến đầu thế kỉ XX là bộ “Áo tứ thân”. Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: “Áo tứ thân” có thể đã ra đời từ thế kỷ XII. Một loại y phục truyền thống được coi là đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam còn duy trì đến ngày nay là “Áo dài”. Trong đời sống thường nhật ngày nay, trang phục đã theo phong cách phương Tây. Những bộ quần áo truyền thống chỉ được mặc trong những dịp đặc biệt.
8. Văn học Việt Nam
Văn học Việt Nam bao gồm: Văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian là văn học truyền miệng của người dân và văn học viết gồm có văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm và văn học chữ Quốc ngữ.
Kho tàng văn học dân gian của Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Để giữ gìn những truyền thống quý báu của dân tộc và bảo tồn những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất của các thế hệ người Việt Nam khi đại đa số người dân trong thời phong kiến không có điều kiện biết chữ Hán, hình thức văn học dân gian truyền miệng đã ra đời và được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác tại Việt Nam. Đó là những câu chuyện thần thoại như Thần Trụ Trời của người Việt, Đi san mặt Đất của người Lô Lô, … sử thi như Đam San của người E Đê, Đẻ đất đẻ nước của người Mường, … truyền thuyết như Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Thánh Gióng của người Việt, truyện cổ tích như Thạch Sanh … và các truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, ca dao, …
Văn học dân gian thường ca ngợi tài năng và lòng dũng cảm của con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, trước kẻ thù độc ác, ca ngợi lòng nhân hậu, độ lượng giúp đỡ nhau, ca ngợi tình yêu trai gái, tình chung thuỷ vợ chồng, tình yêu con người, yêu thiên nhiên, yêu làng xóm và quê hương.
Không những thế, văn học dân gian Việt Nam còn là vũ khí đấu tranh chống lại những thói hư tật xấu của con người, chống lại những bất công trong xã hội. Bằng ngôn ngữ dân gian giàu hình ảnh, bằng nghệ thuật nhạc điệu sinh động, văn học dân gian Việt Nam đã thấm sâu vào lòng người một cách tự nhiên và rất dễ truyền lại cho đời sau.
9. Nghệ thuật Việt Nam
Nghệ thuật Việt Nam được thể hiện đậm nét trong các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc và sân khấu.
Nghệ thuật Việt Nam bắt đầu sớm nhất là kiến trúc dân gian với những hoạ tiết về nhà cửa trên mặt trống đồng Đông Sơn vào khoảng thế kỷ VII trước Công Nguyên. Trải qua thời Bắc thuộc, kiến trúc Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của nền kiến trúc Trung Quốc. Từ thế kỷ X, khi dành được độc lập, kiến trúc Việt Nam là sự kết hợp giữa kiến trúc bản địa cùng với những ảnh hưởng từ Trung Quốc. Các công trình kiến trúc của Việt Nam có quy mô thường không lớn, thường là sự kết hợp hài hoà giữa công trình chính và cảnh quan xung quanh, đặc biệt là sử dụng hồ, ao, sông ngòi để điều tiết khí hậu và tạo cảnh quan. Từ cuối thế kỷ XIV, do thực dân Pháp đô hộ, kiến trúc Việt Nam bắt đầu ảnh hưởng của các khuôn mẫu và thủ pháp kiến trúc, xây dựng của phương Tây. Nhiều công trình kiến trúc phương Tây còn tồn tại đến ngày nay ở các đô thị, đặc biệt tại Hà Nội đã để lại một sắc thái kiến trúc đẹp và độc đáo.
Nền mỹ thuật bắt đầu với điêu khắc cổ được thể hiện trên mặt trống đồng Đông Sơn của cư dân Lạc Việt. Kinh nghiệm đúc kết qua các thời kỳ và những ảnh hưởng từ bên ngoài đã tạo ra nền điêu khắc Việt Nam phát triển rực rỡ vào các thời Lý, Trần, Lê, qua các công trình tôn giáo và cung điện các vương triều. Bên cạnh các công trình kiến trúc và điêu khắc của người Việt, các kỹ thuật tinh xảo trong việc xây dựng các công trình tôn giáo tín ngưỡng của người Chăm và người Khmer Nam Bộ đã làm phong phú và đa dạng nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc Việt Nam.
Hội họa xuất hiện muộn hơn với dòng tranh dân gian Việt Nam, gồm tranh lụa, tranh Tết, tranh Đông Hồ. Đề tài tranh dân gian thường giản dị và gần gũi với đời sống của người dân. Mỗi bức tranh đều có ý nghĩa tượng trưng và đều được cách điệu hoá. Cùng với các môn nghệ thuật hiện đại khác, mỹ thuật hiện đại Việt Nam cũng có những bước tiến dài từ đầu thế kỷ XX với ảnh hưởng của nghệ thuật phương Tây, thời Pháp thuộc, với các trường phái lãng mạn, hiện thực, ấn tượng, trừu tượng, siêu thực, … Mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của phương Tây nhưng khuynh hướng mỹ thuật hiện đại của Việt Nam vẫn gắn liền với lịch sử đất nước.
Sự ra đời và phát triển của sân khấu dân gian Việt Nam gắn liền với đời sống nông nghiệp, trong đó, nghệ thuật múa rối nước là một điểm nhấn. Múa rối nước là nghệ thuật dân gian của người nông dân làm ruộng nước ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, thường được biểu diễn trong dịp hội hè, những lúc nông nhàn. Múa rối nước là một nghệ thuật tổng hoà giữa các nghệ thuật điêu khắc, sơn mài, âm nhạc, hội hoạ và văn học. Cùng với múa rối nước là các môn nghệ thuật chèo, tuồng, cải lương góp phần làm phong phú nền sân khấu cổ truyền Việt Nam. Từ đầu thế kỷ XX, cùng với những ảnh hưởng của sân khấu phương Tây, nghệ thuật sân khấu hiện đại Việt Nam được bổ sung thêm các môn nghệ thuật kịch, hài kịch, xiếc, ảo thuật, múa, balê, opera,…
Âm nhạc dân gian Việt Nam có truyền thống từ lâu đời, bắt đầu với chầu văn, quan họ, ca trù, hát ví, dân ca, vọng cổ, nhạc cung đình, … của người Việt. Bên cạnh đó, âm nhạc dân gian của các dân tộc khác cũng làm phong phú thêm nền âm nhạc dân gian Việt Nam như: hát lượn của người Tày, hát Sli của người Nùng, hát Khan của người Ê Đê, hát dù kê của người Khmer … Cùng với các môn nghệ thuật hiện đại khác, nền âm nhạc hiện đại Việt Nam từ những năm 1930 được hình thành và phát triển đến ngày nay được gọi là tân nhạc Việt Nam với các dòng nhạc tiền chiến, nhạc đỏ, tình khúc 1954 – 1975, nhạc vàng, nhạc hải ngoại và nhạc trẻ.
Vào tháng 9 năm 2009, ba trong số hình thức âm nhạc dân gian Việt Nam là quan họ, ca trù, nhã nhạc cung đình Huế và Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên (bao gồm cả âm nhạc Cồng Chiêng) được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Xem thêm: Di sản văn hóa phi vật thể là gì? Các DSVHPVT của Việt Nam
(Tài liệu tham khảo: Giáo trình bồi dưỡng Nghiệp vụ cho Thuyết minh viên Du lịch, Bộ Văn hóa thể thao và du lịch, Tổng cục Du lịch)