Thiên văn xuất hiện từ rất lâu. Ở đây ta chỉ có thể kể sơ lược một số mốc chính trong sự phát triển của nó. Từ thời hồng hoang, khi con người còn sống trong cảnh màn trời chiếu đất họ đã có những nhận xét về vũ trụ, lý giải nó một cách ngây thơ trong các câu chuyện thần thoại. Hầu như không có một dân tộc nào lại không có những thần thoại như vậy (thần thoại Hy Lạp, chuyện thần trụ trời ở Việt Nam, các chuyện thần thoại Ai Cập, Ấn Độ, Trung Quốc…). Dần dần các quan trắc về bầu trời trở nên rất cần thiết cho việc canh tác nông nghiệp và đi biển (qui luật mùa màng, con nước, xác định vị trí trên biển bằng các sao). Engels đã từng nói về sự xuất hiện của khoa học: “Trước tiên là thiên văn học… Những người dân du mục và nông dân làm nông nghiệp rất cần thiên văn học để xác định thời vụ” *. Trong các công trình kiến trúc của các nền văn minh cổ như : Ai Cập, Maya… đều lưu lại những kiến thức thiên văn rất sâu sắc của người cổ đại.
Lịch sử phát triển của thiên văn như một một môn khoa học có thể chia làm ba giai đoạn chính: Cổ đại, cổ điển và hiện đại.
Thiên văn cổ đại (Ancient Astronomy): Từ những năm 2000 trước công nguyên con người đã có những ghi nhận rất chính xác về thiên văn như vị trí các chòm sao, đường đi của các hành tinh, đường hoàng đạo, chu kỳ Saros. Những nước có nền văn minh cổ đáng lưu ý là: Ai Cập, Ấn Độ, Trung Quốc, các nước Ả Rập, nhưng đặc biệt là Hy Lạp. Người đáng chú ý nhất là Aristotle (khoảng năm 350 trước công nguyên) với các ý tưởng đáng lưu ý như: Ý tưởng về hệ Địa tâm, về 4 nguyên tố cấu thành vũ trụ: đất, không khí, lửa, nước, về sự bất biến của vũ trụ, sự phân chia thế giới phía dưới Mặt trăng và bên trên Mặt trăng v.v…
Cùng với sự ra đời của Thiên chúa giáo với ý tưởng Chúa (Thượng đế) sáng tạo ra thế giới và con người là trung tâm ưu ái, hệ địa tâm Ptolemy ra đời (năm 150 trước công nguyên). Nó đã thống trị trong thiên văn trong suốt một thời gian rất dài. Chỉ bằng những cuộc đấu tranh kiên trì của biết bao nhiêu nhà thiên văn dũng cảm mới làm thay đổi được cái nhìn sai lầm về Hệ Mặt trời mà nó đưa ra.
Thiên văn cổ điển (Classical Astronomy): Từ thế kỷ 16, mặc dù bị giám sát chặt chẽ của nhà thờ, các nhà thiên văn vẫn không chịu công nhận hệ địa tâm Ptolemy và kiên trì đấu tranh cho những tư tưởng mới. Hệ nhật tâm do nhà thiên văn Ba Lan Nicolaus Copernicus (1473 – 1543) đưa ra trong tác phẩm “Về sự quay của thiên cầu” đã mở ra cho thiên văn học một kỷ nguyên mới. Sau đó, nhà thiên văn Đức Iohan Kepler (1571 – 1630) đã tìm ra 3 định luật về sự chuyển động của các hành tinh trong Hệ măt trời. Đây là thời kỳ đấu tranh khốc liệt cho sự thắng lợi của thuyết nhật tâm. Tấm gương chiến đấu tiêu biểu là cái chết trên dàn hỏa thiêu của nhà khoa học Ý G. Bruno tại Roma và sự kiên định của nhà thiên văn Ý G. Galileo (1564 – 1642). Galileo còn là cha đẻ của kính thiên văn, một công cụ không thể thiếu được trong việc quan sát bầu trời. Nhưng đặc biệt nhất trong giai đoạn này là các công trình nghiên cứu về cơ học của nhà bác học Anh I. Newton với tác phẩm “Principia ( Các nguyên lý” (1643(1727). Ông đã đặt nền móng vững chắc cho môn cơ học thiên thể cũng như thiên văn quang học. Các phương pháp tính toán của Newton đã đóng góp rất nhiều cho toán học. Sau ông, các nhà toán học như: Lagranges, Laplace, Le Verrier (Pháp) đã tính toán tìm được thêm một số hành tinh mới của Hệ Mặt trời, đánh dấu sự toàn thắng của thiên văn cổ điển.
Thiên văn hiện đại (Modern Astronomy). Vào cuối thế kỷ XVIII bằng những nỗ lực hoàn thiện công cụ quan sát (kính thiên văn) F.W. Herschel người Anh (1738(1822) đã khai sinh thiên văn học hằng tinh (sao). Ông đã nhận thấy Mặt trời không đứng yên một chỗ mà tham gia chuyển động trong một hệ thống sao gọi là Ngân hà (Our Galaxy). Ông là người đầu tiên thu được mô hình kết cấu của Ngân hà. Sau đó, nhà thiên văn Mỹ Shapley đã chứng minh được Mặt trời không nằm tại tâm Ngân hà, nó không phải là tâm của vũ trụ. Một lần nữa con người nhận thức chính xác hơn về chỗ đứng của mình trong vũ trụ. Đồng thời trong quãng thời gian này những nghiên cứu về quang học cũng phát triển vượt bậc, với sự phát hiện quang phổ vạch Mặt trời của Fraunhofer, các lý thuyết về bức xạ của vật đen tuyệt đối của Kirchhoff… Cuối thế kỷ XIX cuộc tranh luận về bản chất của ánh sáng đã chấm dứt và đã đóng góp rất nhiều cho việc hiểu các quá trình thu nhận thông tin (ánh sáng) từ các thiên thể. Các định luật về bức xạ của Boltzmann, Plank, Einstein… làm cơ sở cho môn thiên văn vật lý. Các phép trắc quang (Photometry) và quang phổ nghiệm (Spectroscopy) cho phép ta hiểu sâu về bản chất của các quá trình vật lý trong các thiên thể. Đầu thế kỷ XX E.P. Hubble (1889 – 1953), nhà thiên văn Mỹ, người sáng lập ra thiên văn học tinh hệ, đã nhận thấy qua hiệu ứng Doppler là các tinh hệ (thiên hà) là đang rời xa chúng ta: vũ trụ không có tâm, tất cả đang dãn nở. Và ông đã tìm ra định luật về sự dãn nở đó. Cùng với các thuyết tương đối rộng và hẹp của A. Einstein vĩ đại (1879 – 1955) về bản chất của không thời gian, những phát kiến của Hubble đã làm cho môn vũ trụ luận (Cosmology) tiến thêm một bước, với thuyết vụ nổ lớn (Big – Bang) nổi tiếng hiện nay.
Từ năm 1945 thiên văn vô tuyến ra đời, góp phần đắc lực cho việc tìm hiểu vũ trụ.
Trong thế kỷ XX ta thấy có sự kết hợp hài hòa giữa hai lĩnh vực nghiên cứu khác nhau của vật lý: vi mô và siêu vĩ mô. Các vật thể vũ trụ dù to lớn đến mấy cũng được cấu tạo từ những thành phần rất nhỏ là nguyên tử và hạt nhân. Vật lý hạt nhân – nguyên tử cho phép giải thích nguồn gốc năng lượng của các thiên thể. Các định luật của thế giới vi mô trong cơ học lượng tử làm cho người ta hiểu rõ cơ chế của các quá trình hình thành, tiến hóa của các vật thể trong vũ trụ (Nguyên lý Pauli, Giới hạn Chandrasekhar, Nguyên lý bất định Heisenberg, Những kỳ dị toán học (Singularity) của S. Hawking…). Thiên văn đã đặt ra nhiều vấn đề cho vật lý học hiện đại và vật lý cũng góp phần giải quyết nhiều vấn đề của thiên văn. Đặc biệt trong việc giải thích nguồn gốc của vũ trụ rất cần sự kết hợp giữa các lý thuyết vật lý hiện đại thành một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh mà hiện nay vật lý chưa tìm ra được. Do đó thiên văn vật lý đang là một ngành mũi nhọn trong khoa học.
Không thể không kể đến việc từ những năm 60 của thế kỷ này con người đã thành công trong việc bước ra khỏi chiếc nôi Trái đất bé bỏng của mình, đã đặt những bước chân đầu tiên vào vũ trụ. Đó chính là những bước sải dài trong lịch sử thiên văn. Nhờ có ngành hàng không vũ trụ thiên văn của thế kỷ XX đã thu được nhiều thành tựu rất lớn.
Tuy nhiên, vũ trụ là mênh mông vô tận, so với sự tồn tại của nó thì lịch sử phát triển của môn thiên văn chỉ chưa đầy một tích tắc. Thiên văn vẫn còn chưa viết đoạn kết cho rất nhiều vấn đề của mình.