1. Đặc điểm hình dạng
Hình dạng cơ thể ở dạng đơn bào, có nhiều dạng khác nhau, nhưng thường gặp dạng hình bầu dục, thoi, lá trầu, dạng hũ.
2. Đặc điểm cấu tạo
– Vách tế bào (thành tế bào) là màng chu bì (periplast) mềm, mịn nên tế bào có thể biến đổi hình dạng (Euglena). Nhiều loài có màng chu bì cứng nên tế bào không biến hình dạng (Phacus) một số giống loài có màng bằng Gelatin vững chắc (Trachelomonas), lớp vỏ này tách khỏi nguyên sinh chất thường có màu vàng tới màu nâu tối. Trên thành tế bào thường có các vân dọc hay xoắn, một số còn có các lỗ nhỏ tiết chất nhày ra ngoài. Thành tế bào có thể sần sùi hay trơn nhẵn.
Bao bên ngoài màng nguyên sinh chất là những dải cutin mềm mại xếp chồng lên nhau theo chiều dọc hoặc xoắn ốc. Chính nhờ những đặc tính này mà chúng có những cử động biến đổi hình dạng (ở Euglena, Phacus), trừ những loài có một vỏ cứng bao bên ngoài nên không có cử động biến hình như Trachelomonas, Strombomonas.
– Ngành tảo này gồm chủ yếu là tảo đơn bào mang roi. Roi nẩy sinh từ đáy của một huyệt gồm một rãnh và túi chứa. Tế bào mang hai roi, roi ngắn nằm ở trong huyệt và roi dài mang một hàng lông tơ mảnh gắn về một phía của roi cùng lớp với roi ngắn.
– Lục lạp (sắc tố) chứa chlorophyll a và b, không có chlorophyll c. Sắc tố phụ gồm: carotein, neoxanthin, diatoxanthin, diadinoxanthin,
– Điểm mắt nằm tự do trong tế bào chất và ta quan sát thấy nó nằm ở gốc roi của một số loài, có kích thước 7 – 8µm chứa các hạt màu đỏ, da cam hay nâu, đen gọi là sắc tố của điểm mắt. Sản phẩm dự trữ là paramylon. Theo Gottlieb, paramylon được cấu tạo bởi một carbonhydrat gần giống với tinh bột nhưng không bắt màu với iodin, nên được gọi là các hạt paramylon, chúng được xây dựng bởi kết nối (1,3 glucan là tinh thể có màng bao (gồm hai phần: phần hình chữ nhật và phần có nhiều góc). Sản phẩm dự trữ dạng lỏng – Chrysolaminarin có thể là một sản phẩm dự trữ thay thế ở một số loài tảo mắt như Eutreptiella gymnasti, Sphenomonas leavis. Ở đây có thể gồm cả hai loại. Paramylon hiện diện dưới dạng hạt có màng bao, chrysolaminarin ở trong các túi ở phần cuối tế bào. Đa số tảo mắt sống ở nước ngọt, đặc biệt những thuỷ vực giàu chất hữu cơ; một số ít loài ở biển. Ngành này có khoảng 40 chi, hơn 800 loài. Đa số loài có sắc tố, nhưng tảo mắt có khuynh hướng sống dị dưỡng.
Chi Euglena sống quang dưỡng nhưng cũng có quá trình dinh dưỡng các hợp chất hữu cơ một cách mạnh mẽ. Đa số loài sống hoại sinh. Một số thực bào (chi Peranema, Eutosiphon).
– Nhân tế bào: Có một nhân to, thường hình cầu nằm ở trung tâm tế bào hay đầu sau của tế bào.
– Hệ thống không bào: Hệ thống không bào rất phát triển. Phía đầu của một số loài thường lõm vào hình thành rãnh ngắn, hẹp đi tới một bầu dự trữ lớn gọi là không bào dự trữ, gần bầu dự trữ có một hay nhiều không bào co bóp và chúng thông với nhau. Không bào dự trữ thu hút chất dịch tiết ra của không bào co bóp rồi phồng to lên và chuyển chúng vào rãnh, sau đó lại co nhỏ dần, thu hẹp lại nguyên hình.
– Tế bào chất chứa nhiều bọt nước nhỏ, bọt nước này bắt màu khi nhuộm bằng độ trung hòa.
3. Đặc điểm dinh dưỡng
Tảo mắt có 3 hình thức dinh dưỡng
a. Dinh dưỡng tự dưỡng
Những tảo mắt có thể sắc tố đều có khả năng quang hợp tạo nên chất hữu cơ của cơ thể.
b. Dinh dưỡng dị dưỡng
Một số loài có khả năng nuốt trực tiếp chất hữu cơ qua bào khẩu, cơ thể hình thành bào thực và tiêu hoá thức ăn.
c. Dinh dưỡng thẩm thấu
Những giống loài không mang sắc tố có thể dựa vào sự thẩm thấu qua thành tế bào mà nhận chất hữu cơ hoà tan từ môi trường.
Một số giống loài phương thức dinh dưỡng biến đổi theo hoàn cảnh sống. Thí dụ Euglena gracilis sống ở nơi thiếu ánh sáng dinh dưỡng dị dưỡng, còn ở những nơi có ánh sáng thì dinh dưỡng tự dưỡng.
4. Sinh sản
Tảo mắt sinh sản dinh dưỡng bằng cách phân đôi tế bào. Những giống loài có vỏ dầy thì quá trình phân chia được thực hiện trong vỏ của tế bào mẹ, một tế bào con ra ngoài và tự tạo thành vỏ mới. Có tác giả cho rằng E. sanguinea sinh sản hữu tính nhưng hiện tượng này chưa rõ và chưa phổ biến.
5. Phân bố
Tảo mắt sống chủ yếu trong nước ngọt, nhất là các vũng nước, ao, mương mà nước có chứa nhiều chất hữu cơ (do xác bả Động, Thực vật thối rã), chúng phát triển mạnh làm cho nước có màu lục. Khi mật độ cá thể nhiều, chúng làm thành “váng” màu xanh lục trên mặt nước của ao, mương.
6. Phân loại và đại diện
Theo tác giả Dương Đức Tiến thì ngành tảo mắt chỉ có một lớp là lớp Euglenophyceae phân thành 2 bộ (Euglenales và Peranemales). Những loài tảo mắt phù du thường gặp trong các thủy vực thường nằm trong bộ tảo mắt Euglenales
Ngành tảo mắt: Euglenophyta
Lớp: Euglenophyceae
Bộ: Euglenales
Họ: Euglenaceae
* Bộ Euglenales: Đặc điểm tế bào có hình thoi, hình kim, hình lá trầu, hình bầu dục, hình chai (hũ). Thành tế bào bằng chu bì mền hay cứng. Thể sắc tố nhiều và đa dạng (hình hạt, que, bản…), chất dự trữ cũng nhiều và hình dạng đa dạng (hình tròn, que…). Tế bào có 1 roi. Các loài tảo mắt thường gặp trong các thuỷ vực nước ngọt thường gặp trong các họ sau:
+ Họ Euglenaceae: Những chi điển hình trong họ bao gồm
– Chi Euglena: Tế bào có hình thoi, hình trứng, băng uốn…thành tế bào bằng chu bì mền, có vân dọc hoặc vân lỗ. Tế bào có hình dạng cố định hay biến dạng tuỳ thuộc vào màng chu bì cứng hay mềm. Phía trước có một roi nằm trong rãnh, trong có không bào co bóp và điểm mắt. Thể sắc tố hình que, sao.
Một số loài thường gặp trong các thuỷ vực nước ngọt giàu chất hữu cơ Euglena acus, E.spyrogyra, E. oxyuris… Các loài này khi phát triển mạnh làm nước có màu xanh bẩn hoặc váng xanh trên mặt nước. Loài Euglena sanguinea do có sắc tố đỏ nên khi phát triển mạnh làm thành lớp váng màu nâu ở trên mặt thuỷ vực
– Chi Phacus (tảo lá trầu): Tế bào có cấu trúc dẹp giống lá trầu không. Vách tế bào cứng, có dường vân và lỗ vân. Các đặc điểm về rãnh, họng, roi, không bào co bóp giống chi Euglena. Thể sắc tố dạng khay, chất dự trữ 1-2 cáo hình tròn to, thường có 1 cái rất lớn nằm chính giữa tế bào.
Một số loài thường gặp trong chi Phacus là Phacus triqueter Her; Ph. Pleuronectes Miiler, Ph. Longicaudus Erh
– Chi Trachelomonas (Tảo chai, tảo hũ) Tế bào có dạng hình trứng, hình thoi, màu vàng nâu, vỏ cứng. Phía trước tế bào có dạng cổ chai hay không. Thành tế bào có lông hoặc gai, phân bố trong các thuỷ vực nước ngọt giàu chất hữu cơ.
– Chi Lepocinelis: Tế bào hình trứng hay hình bầu dục, thành tế bào cứng, có vân dọc hoặc vân xoắn ốc, có rãnh hang một roi, thể sắc tố dạng khay. Thường gặp nhiều trong các cống nước thải. Loài thường gặp Lepocinelis ovum Ehr.
+ Họ Colaciaceae: Chi thường gặp là chi Colacium tế bào có dạng trái xoan, có cuống bằng chất keo, sống đơn bào hoặc nhờ chất keo liên kết thành quần thể phân nhánh. Nhờ màng keo mà chúng sống có định vào các động vật giáp xác hạ đẳng như giáp xác râu chẻ, giáp xác chân chèo, trùng bánh xe…
7. Ý nghĩa và mối quan hệ
Do nhiều loài tảo mắt có vỏ cứng cho nên cá và các động vật thuỷ sinh khác khó tiêu hoá. Một số là thức ăn của động vật nước.
Là sinh vật chỉ thị cho độ nhiễm bẩn của thuỷ vực (dựa vào mật độ tảo có thể đánh giá thuỷ vực nhiễm bẩn nhẹ, vừa, nặng).
Là tác nhân gây bệnh cho một số động vật nước như Astasia kí sinh trong ruột nòng nọc ếch.
– Tảo mắt là nguồn thức ăn quan trọng cho cá và những động vật thủy sinh khác.
– Về mối quan hệ
Các nhà động vật học thường xếp Tảo mắt vào giới Protozoa – một ngành Động vật nguyên thủy nhất, vì một vài loài có khe bào hầu, có thể tiêu thụ được những phân tử thức ăn cứng và nó còn có khả năng chuyển động khá nhanh. Còn những nhà Thực vật học xem Tảo mắt có màu xanh là những thực vật, vì chúng chứa diệp lục tố nên có khả năng thực hiện quá trình quang hợp (tự dưỡng). Một số sinh vật có ngoại hình giống Tảo mắt nhưng không có diệp lục tố, chúng được xem như là những động vật có quan hệ với Tảo mắt có màu xanh. Chính vì vậy mà các nhà Sinh vật học cho rằng nhóm Tảo mắt có mối liên hệ gần với sinh vật nguyên sinh, có lẽ từ chúng phát triển thành 2 giới Động vật và Thực vật. Một số nhà Sinh vật học lại không xếp Tảo mắt vào 2 giới này mà đặt nó vào một giới gọi là Protista. Nói chung cho đến nay, mối quan hệ của Tảo mắt vẫn còn chưa thống nhất.
(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Sinh thái Thủy sinh vật)