1. Khái niệm kinh tế học, kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô
Có rất nhiều khái niệm về kinh tế học, ở đây chúng tôi chỉ nêu ra một khái niệm mà được nhiều nhà kinh tế thống nhất sử dụng:
“Kinh tế học là một môn khoa học xã hội, nghiên cứu xem việc lựa chọn cách sử dụng hợp lý các nguồn lực khan hiếm để sản xuất ra các hàng hóa cần thiết và phân phối chúng cho các thành viên trong xã hội”.
Kinh tế học là môn học nghiên cứu phương thức xã hội quản lý nguồn lực khan hiếm của mình. Trong hầu hết các xã hội, nguồn lực được phân bổ không phải bởi một nhà hoạch định duy nhất ở Trung ương, mà thông qua các hoạt động liên hệ qua lại giữa hàng triệu hộ gia đình và doanh nghiệp. Vì thế, nhà nghiên cứu kinh tế muốn xem mọi người ra quyết định như thế nào: họ làm việc bao nhiêu, mua cái gì, tiết kiệm bao nhiêu và đầu tư khoản tiết kiệm ấy ra sao? Nhà kinh tế cũng muốn nghiên cứu xem con người quan hệ qua lại với nhau như thế nào? Ví dụ, họ muốn phân tích xem làm thế nào mà hàng vạn người mua bán một mặt hàng lại có thể cùng nhau tạo ra một giá cả và lượng hàng bán ra. Cuối cùng, nhà kinh tế muốn phân tích các lực lượng và xu thế ảnh hưởng đến nền kinh tế với tư cách một tổng thể, trong đó có tốc độ tăng trưởng của mức thu nhập bình quân, tình trạng thất nghiệp ở một bộ phận dân cư và đà gia tăng của giá cả.
Tùy theo cách thức sử dụng mà kinh tế học được chia thành hai dạng là kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc. Kinh tế học thực chứng là việc mô tả và phân tích các sự kiện, những mối quan hệ trong nền kinh tế như: hiện nay, tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu? Nếu lạm phát giảm đi 2% thì thất nghiệp có tăng lên không và tăng bao nhiêu? Còn kinh tế học chuẩn tắc lại đề cập đến mặt đạo lý được giải quyết bằng sự lựa chọn, chẳng hạn như: tỷ lệ thất nghiệp cao đến mức độ nào thì chấp nhận được? Có nên tăng chi phí quốc phòng không? Có nên dùng thuế để phân phối lại thu nhập giữa người giàu và người nghèo không? Những vấn đề này thường được tranh luận nhưng không bao giờ được giải quyết bằng khoa học hoặc bằng thực tiễn kinh tế. Kinh tế học thực chứng là để trả lời câu hỏi “Là bao nhiêu?”, “Là gì?”, “Như thế nào?”, còn kinh tế học chuẩn tắc là để trả lời câu hỏi “Nên làm cái gì?”. Nghiên cứu kinh tế thường được tiến hành từ kinh tế học thực chứng rồi chuyển sang kinh tế học chuẩn tắc.
Kinh tế học bao gồm hai bộ phận là kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. Kinh tế học vi mô có thể ra đời sớm hơn kinh tế học vĩ mô và khởi thủy có thể coi là khi có sự bắt đầu của quan điểm thị trường điều tiết nền kinh tế trong quan điểm “Bàn tay vô hình” của Adam Smith. Quan điểm đó đưa ra cách tiếp cận vi mô trong việc nghiên cứu và điều tiết nền kinh tế, từ đó thể hiện cách nghiên cứu cũng như nội hàm nghiên cứu của kinh tế học vi mô hiện đại. Kinh tế học vi mô là môn khoa học nghiên cứu cách thức ra quyết định của hộ gia đình và hãng kinh doanh cũng như sự tương tác của họ trên các thị trường cụ thể.
Như vậy, kinh tế học vi mô sẽ nghiên cứu sự hoạt động của các tác nhân trong nền kinh tế như người tiêu dùng, hộ gia đình, doanh nghiệp, hãng sản xuất và các yếu tố tác động ảnh hưởng, các loại hình thị trường mà các tác nhân trong nền kinh tế đang hoạt động sản xuất và kinh doanh.
Trong khi đó, kinh tế học vĩ mô với quan điểm “bàn tay hữu hình” của J.M.Keynes đi thẳng vào nghiên cứu các tổng thể kinh tế, bỏ qua cách tiếp cận vi mô như việc nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng, hãng sản xuất…
Kinh tế học vĩ mô – một phân ngành của kinh tế học – nghiên cứu sự vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Nói cách khác, kinh tế học vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi quốc gia trước những vấn đề kinh tế và xã hội cơ bản như tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, xuất nhập khẩu hàng hóa và tư bản, sự phân phối nguồn lực và phân phối thu nhập giữa các thành viên trong xã hội. Ngoài ra, kinh tế học vĩ mô cũng nghiên cứu cách thức giải quyết của mỗi quốc gia trước những mối quan hệ kinh tế chủ yếu như mối quan hệ cơ bản giữa chu kỳ kinh tế và sự thiếu hụt sản lượng, tăng trưởng và thất nghiệp, tăng trưởng và lạm phát…
Một quốc gia có thể có những lựa chọn khác nhau tùy thuộc vào các ràng buộc của họ về các nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị – xã hội. Song, sự lựa chọn đúng đắn nào cũng cần đến những hiểu biết sâu sắc về hoạt động mang tính khách quan của hệ thống kinh tế.
2. Đối tượng nghiên cứu
Từ các khái niệm nêu ra ở trên, có thể liệt kê một số đối tượng nghiên cứu chủ yếu của kinh tế học vĩ mô bao gồm:
Thứ nhất, nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi quốc gia trước những vấn đề kinh tế – xã hội cơ bản như: sản lượng, tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp,…
Thứ hai, kinh tế học vĩ mô tập trung nghiên cứu các vấn đề như thâm hụt ngân sách, cán cân thanh toán, cán cân thương mại, sự dao động trong lãi suất, tỷ giá hối đoái.
Thứ ba, kinh tế học vĩ mô cung cấp những kiến thức và công cụ phân tích kinh tế một cách khách quan tạo cơ sở để Chính phủ của mỗi nước có sự lựa chọn đúng đắn trong hoạch định các chính sách kinh tế. Những kiến thức và công cụ phân tích này được đúc kết từ nhiều công trình nghiên cứu và tư tưởng của nhiều nhà khoa học kinh tế phụ thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Ngày nay chúng càng được hoàn thiện và có thể mô tả chính xác hơn đời sống kinh tế vô cùng phức tạp của chúng ta.
Thứ tư, giải thích nguyên nhân nền kinh tế đạt được những thành công hay thất bại và những chính sách có thể nâng cao sự thành công của nền kinh tế,…
3. Phương pháp nghiên cứu
Để phân tích các hiện tượng kinh tế và các mối quan hệ kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế, kinh tế học vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng hợp do L.Walras (1834 – 1910) phát triển từ năm 1874 trong tác phẩm: “Elements d’ é conomic Polique Pure (1874 – 1877). Theo phương pháp này, kinh tế học vĩ mô khác với kinh tế học vi mô, xem xét sự cân bằng đồng thời của tất cả các thị trường của các hàng hóa và các nhân tố, xem xét sự đồng thời khả năng cung cấp và sản lượng của toàn bộ nền kinh tế, từ đó xác định đồng thời giá cả và sản lượng cân bằng – những yếu tố quyết định tính hiệu quả của hệ thống kinh tế.
Ngoài ra kinh tế học vĩ mô còn sử dụng phương pháp phổ biến như tư duy trừu tượng, phân tích thống kê số lớn, mô hình hóa kinh tế,… Đặc biệt những năm gần đây và trong tương lai, các mô hình kinh tế lượng vĩ mô sẽ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong các lý thuyết kinh tế học vĩ mô hiện đại. Mô hình là lý thuyết tổng kết, khái quát hóa những mối quan hệ chủ yếu giữa các biến số kinh tế thường là dưới dạng toán học. Mô hình sẽ giúp chúng ta lược bỏ những chi tiết thứ yếu, không quan trọng đối với mục tiêu nghiên cứu, để tập trung vào mối quan hệ kinh tế then chốt, có ý nghĩa quan trọng đối với mục tiêu nghiên cứu.
Nhiệm vụ của khoa học kinh tế là tìm ra được những tuyên bố thực chứng nhất quán với những gì chúng ta quan sát được trong nền kinh tế, để đạt được nhiệm vụ này, các bước tiến hành bao gồm:
Thứ nhất, quan sát và đo lường: là quá trình quan sát, thu thập số liệu và đo lường các biến số kinh tế vĩ mô để phục vụ cho quá trình phân tích.
Thứ hai, xây dựng mô hình: để xây dựng được mô hình nghiên cứu, các bước cần tiến hành sẽ bao gồm: Xác định vấn đề nghiên cứu; xây dựng các mối quan hệ dựa trên các giả định đơn giản hóa so với thực tế.
Thứ ba, kiểm định mô hình: là quá trình các nhà nghiên cứu, các nhà kinh tế học sẽ tập hợp các số liệu và phân tích để kiểm chứng lại giả thuyết. Nếu kết quả thực nghiệm phù hợp với giả thuyết thì giả thuyết được công nhận, còn nếu ngược lại, giả thuyết bị bác bỏ. Một vài giả thuyết và lý thuyết kinh tế được công nhận một cách rộng rãi được gọi là quy luật kinh tế. Tuy nhiên, việc đưa ra kết luận cuối cùng cũng cần rất thận trọng do vấn đề liên quan đến giả định các yếu tố khác không thay đổi, các vấn đề liên quan đến quan hệ nhân quả,…