Công ty cổ phần là gì? Thị trường chứng khoán là gì? Các yếu tố cổ phiếu, thị giá cổ phiếu, cổ tức…
Công ty cổ phần
Công ty cổ phần xuất hiện từ đầu thế kỉ XVII và phát triển rộng rãi nữa sau thế kỉ XIX. Công ty cổ phần là loại xí nghiệp lớn mà vốn của nó hình thành từ việc liên kết nhiều tư bản cá biệt và các nguồn tiết kiệm cá nhân thông qua việc phát hành cổ phiếu.
Cổ phiếu là loại chứng khoán có giá, bảo đảm cho người sở hữu nó được quyền nhận một phần thu nhập của công ty dưới hình thức lợi tức cổ phiếu (cổ tức). Lợi tức cổ phiếu không cố định mà phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Trên mỗi cổ phiếu có ghi giá tiền cổ phiếu gọi là mệnh giá cổ phiếu hay giá trị danh nghĩa của cổ phiếu. Về nguyên tắc, công ty cổ phần không hoàn lại vốn cho chủ cổ phiếu, cổ phiếu bị mất giá trị khi công ty bị phá sản. Cổ phiếu có nhiều loại: cổ phiếu thường, cổ phiếu đặc quyền; cổ phiếu có ghi tên người mua; cổ phiếu không ghi tên người mua.
Cổ phiếu được mua bán dựa vào giá cả thị trường của cổ phiếu hay gọi là thị giá cổ phiếu. Thị giá cổ phiếu không phụ thuộc vào giá trị danh nghĩa ghi trên mặt cổ phiếu hay mệnh giá cổ phiếu mà phụ thuộc vào lợi tức cổ phiếu và tỉ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng.
Ví dụ: Một cổ phiếu một năm đem lại thu nhập từ lợi tức cổ phiếu là 50 USD và tỉ suất lợi tức tiền gửi ngân hàng là 5% một năm. Cổ phiếu đó được bán với thị giá cổ phiếu là:
Thị giá cổ phiếu luôn biến đổi do sự biến động của tỉ suất lợi tức ngân hàng và do sự đánh giá tình hình hoạt động của công ty cổ phần với dự đoán lợi tức cổ phiếu sẽ thu được.
Người mua cổ phiếu gọi là cổ đông. Về mặt tổ chức và quản lý, đại hội cổ đông là cơ quan tối cao bầu ra hội đồng quản trị và quyết định theo số lượng cổ phiếu, bởi vậy, những nhà tư bản nắm được cổ phiếu khống chế (trên 50% số cổ phiếu) sẽ có khả năng thao túng mọi hoạt động của công ty cổ phần.
Ngoài cổ phiếu khi cần vốn cho hoạt động kinh doanh, công ty cổ phần có thể vay ngân hàng hay phát hành trái phiếu. Khác với cổ phiếu, người có trái phiếu được nhận một khoản lợi tức cố định và được hoàn trả vốn sau thời hạn ghi trên trái phiếu. Người mua trái phiếu không được tham gia đại hội cổ đông.
Sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần mà tư bản được tập trung nhanh chóng, xuất hiện những xí nghiệp khổng lồ mà không một nhà tư bản riêng lẻ nào đủ sức tạo nên. Đồng thời nó còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển tư bản đầu tư, tăng tính linh hoạt và cạnh tranh trong nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán xuất hiện đầu tiên vào thế kỷ XVI – XVIII ở Anh, Pháp. Thị trường chứng khoán là thị trường mua bán các loại chứng khoán có giá. Ngoài cổ phiếu và trái phiếu, trên thị trường chứng khoán còn mua bán các loại chứng khoán khác như công trái, tín phiếu, văn tự cầm cố. Thị trường chứng khoán thường được thực hiện chủ yếu tại sở giao dịch chứng khoán và một phần ở ngân hàng lớn.
Thị trường chứng khoán là loại thị trường rất nhạy với các biến động kinh tế, chính trị xã hội, quân sự… là “phong vũ biểu” của nền kinh tế. Khi giá cả chứng khoán tăng biểu hiện nền kinh tế đang phát triển, ngược lại là nền kinh tế đang sa sút, khủng hoảng.
* Ý nghĩa nghiên cứu
- Huy động vốn trong xã hội bao gồm: Vốn cá nhân, vốn của các thành phần kinh tế, vốn của nước ngoài.
- Thông qua hoạt động của công ty cổ phần mà nguồn vốn xã hội được vận động liên tục, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn.
- Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, chế độ cổ phần làm cho các xí nghiệp, công ty…đan xen vào nhau tận dụng sức mạnh của
- Phân biệt được quyền sở hữu và quyền kinh doanh, tạo điều kiện thực hiện quyền tự chủ kinh doanh, nâng cao trách nhiệm, gắn liền và kết hợp các loại lợi ích có hiệu quả, tạo ra các động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế.