Trang chủ Lịch sử Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954

by Ngo Thinh
193 views

Sau khi không đạt được âm mưu bảo vệ chiến trường Tây Bắc, Thượng Lào và cũng không ngăn chặn được kế hoạch tiến công của ta trong Đông – Xuân 1953 – 1954, Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương quyết định chấp nhận cuộc chiến đấu với chủ lực ta tại chiến trường rừng núi Tây Bắc Việt Nam. Do đó, từ đầu tháng 12-1953, Nava chủ trương xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh.

Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn thuộc phía nam tỉnh Lai Châu, có chiều đài từ 18 đến 20 km; chiều rộng từ 6 đến 8 km; cách Hà Nội khoảng 300 km và cách Luông Phabăng khoảng 200 km theo đường chim bay. Thung lũng Điện Biên nằm gần biên giới Việt – Lào, trên một ngã ba cổ nhiều tuyến đường quan trọng. Dưới con mắt của các nhà quân sự Pháp, Điện Biên Phủ “là một vị trí chiến lược quan trọng chẳng những đối với chiến trường Đông Dương, mà còn đối với Đông Nam Á – một trục giao thông nối liền các miền biên giới Lào, Thái Lan, Miến Điện và Trung Quốc”. Đó là “một cái chìa khoá để bảo vệ Thượng Lào”, một “bàn xoay” có thể đi bốn phía Việt Nam, Lào, Miến Điện, Trung Quốc

Điện Biên Phủ được xây dựng thành một hệ thống phòng ngự dầy đặc gồm 49 cứ điểm, mỗi cứ điểm đều có khả năng phòng ngự. Nhiều cứ điểm nằm kề nhau được tổ chức lại thành cụm cứ điểm; mỗi một cụm cứ điểm chính là một trung tâm đề kháng theo kiểu phức tạp, có lực lượng cơ động. và hoả lực riêng, có hệ thống công sự vững chắc, xung quanh có hàng rào dây thép gai dày đặc và có cả năng độc lập phòng ngự khá mạnh. Mỗi trung tâm đề kháng cũng như toàn bộ tập đoàn cứ điểm đều được che chở bằng một hệ thống công sự nằm chìm dưới mặt đất, bằng một hệ thống vật cản hàng rào hoặc bãi dây thép gai, bãi mỉm cùng một hệ thống hoả lực mạnh. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có 8 cụm cứ điểm và được xây dựng thành 3 phân khu có khả năng yểm trợ cho nhau: Phân khu Bắc có hai trung tâm để kháng là Độc Lập và Bản Kéo; trong đó cứ điểm Độc Lập có nhiệm vụ án ngữ phía bắc, ngăn chặn cuộc tiến công của quân ta từ hướng Lai Châu vào Điện Biên Phủ.

Phân khu Nam đặt tại bản Hồng Cúm, có một sân bay dự bị, làm nhiệm vụ ngăn chặn quân ta tiến công từ phía nam lên, đồng thời giữ con đường liên lạc với Thượng Lào.

Phân khu lớn nhất và quan trọng nhất là phân khu Trung tâm, đặt tại giữa thung lũng Mường Thanh (huyện lị Điện Biên, nay là thành phố Điện Biên). Tại phân khu này, có năm sở chỉ huy của Tướng Đờ Cátxtơri, một sân bay chính Mường Thanh – nơi được coi là “trái tim” và là cái “dạ dày” của tập đoàn cứ điểm. Địch tập trung ở phân khu Trung tâm tới 2/3 lực lượng. Ở phía đông phân khu Trung tâm có một hệ thống cao điểm rất lợi hại (A1, C1, D1, El), hợp thành một bức bình phong thiên nhiên vững chắc mà địch cho là khó lòng vượt qua. Cụm cứ điểm Him Lam tuy thuộc phân khu Trung tâm, nhưng cùng với các cụm cứ điểm Độc Lập, Bản Kéo là những vị trí ngoại vi đột xuất của địch, có nhiệm vụ án ngữ phía bắc và đông bắc, ngăn chặn cuộc tiến công của ta từ hướng Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ.

Lực lượng địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ tăng dần từ 6 tiểu đoàn lên 9 tiểu đoàn, rồi 12 tiểu đoàn. Cho đến thượng tuần tháng 3-1954, tổng số binh lực của địch là 17 tiểu đoàn (16.200 tên), phần lớn là các đơn vị lính Âu – Phi tinh nhuệ.

Với hệ thống công sự vững chắc, lực lượng cơ động mạnh, binh khí kĩ thuật nhiều và hiện đại, tập đoàn đế quốc Pháp – Mĩ đều coi Điện Biên Phủ là “Pháo đài bất khả xâm phạm”, là “cái bẫy hiểm ác”, “cái máy nghiền khổng lồ” để nghiền nát quân chủ lực của ta.

Trung tâm điểm của Kế hoạch Nava từ cho tập trung quân cơ động tại đồng bằng Bắc Bộ, đã chuyển sang xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Vì vậy, muốn phá tan Kế hoạch Nava để ngăn chặn âm mưu của đế quốc Pháp – Mĩ, nhất thiết phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Có tiêu diệt được Điện Biên Phủ thì mới đập tan được âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của đế quốc Pháp – Mĩ. Tuy nhiên, sự cần thiết phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và tầm quan trọng của Điện Biên Phủ không thể coi là cơ sở chủ yếu và duy nhất để hạ quyết tâm đánh Điện Biên Phủ. Vấn đề chủ yếu là căn cứ vào so sánh lực lượng cụ thể giữa ta và địch lúc bấy giờ, căn cứ vào những khả năng mới của quân ta và của địch để có thể đi đến quyết định đánh hay không đánh .

Ngày 6-12-1953. Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị và nhận định: Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của thực dân Pháp ở Đông Dương, nhưng nó có những chỗ yếu rất cơ bản. Tập đoàn này nằm sâu trong vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam, cách xa hậu phương của địch; mọi sự tiếp tế, tiếp viện đều dựa vào đường không, nên dễ bị cô lập. Đối với ta, Điện Biên Phủ cũng là nơi xa hậu phương lớn (cách Việt Bắc và vùng tự do Thanh – Nghệ – Tĩnh từ 300 đến 500 km). Vì vậy, nếu đánh Điện Biên Phủ, ta sẽ gặp khó khăn lớn nhất là vấn đề tiếp tế, hậu cần; nhưng nhân dân ta hoàn toàn có khả năng khắc phục được. Đó là, hậu phương của ta được xây dựng vững chắc về mọi mặt và đang chuyển mạnh trong cuộc cách mạng ruộng đất; chính quyền dân chủ nhăn dân và mặt trận dân tộc thống nhất dựa trên nền tảng liên minh công nông được củng cố và mở rộng. Hơn nữa, quân đội ta đã trưởng thành không chỉ về số lượng, mà về chất lượng, có khả năng đánh được. một tập đoàn cứ điểm.

Từ nhận định trên, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, mang mật danh chiến dịch Trần Đình. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch tạt đây, giải phóng toàn bộ lãnh thổ Tây Bắc và tạo điều kiện thuận lợi cho bạn giải phóng miền Bắc Thượng Lào; đồng thời tiêu hao một phần sinh lực địch trên chiến trường Đông Dương.

Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và địch.

Trong Chỉ thị ngày 22-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ chiến dịch Điện Biên Phủ là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy, toàn Đảng, toàn quân phải tập trung hoàn thành cho kì được.

Từ sau quyết định của Bộ Chính trị, mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch được xúc tiến rất khẩn trương. Bộ chỉ huy và Đảng uỷ Mặt trận được thành lập do Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Uỷ viên Bộ Chính trị, Tổng Tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng uỷ Mặt trận. Chính phủ ra quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận do Phạm Văn Đồng – Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, làm Chủ tịch.

Quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biến thành ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, nhân dân ở các vùng tự do Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV, vùng mới giải phóng Tây Bắc, cũng như trong các vùng du kích và căn cứ du kích đồng bằng Bắc Bộ đều hăng hái, tự nguyện đóng góp sức lực, tiền của, sẵn sàng hi sinh hết thảy, kịp thời bảo đảm cung cấp cho chiến dịch. Trong chín năm kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mĩ, chưa bao giờ sức mạnh hậu phương lại được phát huy cao độ và sử dụng một cách có hiệu quả như thời kì này.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng bào các dân tộc Việt Bắc, Tây Bắc, Liên khu III, Liên khu IV đã đóng góp 261.453 dân công (tương đương 14 triệu ngày công), 25.056 tấn lương thực, 907 tấn thịt và hàng ngàn tấn thực phẩm khác. Đặc biệt, đồng bào Tây Bắc đã có những cố gắng rất lớn. Tuy mới được giải phóng, đất rộng người thưa, đời sống còn rất khó khăn, nhưng trong chiến dịch này, đồng bào Tây Bắc đã dồn hết sức mình tiếp tế cho bộ đội 7.310 tấn gạo, 389 tấn thịt, 800 tấn rau xanh; đồng thời huy động 31.818 dân công làm công tác vận chuyển, sửa chữa cầu đường, xây dựng kho lớn.

Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với các đơn vị công binh anh dũng phá bom nổ chậm, mở đường đến các trận địa. Hàng ngàn km đường được xây dựng và sửa chữa để phục vụ chiến dịch.

Các phương tiện vận chuyển từ thô sơ đến cơ giới được huy động. Hầu hết ô tô vận tải (628 chiếc) được đưa ra mặt trận. Bộ đội vận tải nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, xe chạy ban đêm không cần đèn, vượt qua bom nổ chậm, luôn tăng năng suất và hoàn thành vượt mức kế hoạch. Khoảng 11.800 thuyền các loại ngược dòng sông Mã từ Thanh Hoá, vượt thác sông Đà từ Liên khu III, Hoà Bình… lên; hoặc xuôi dòng Nậm Na từ Phong Thổ, Lai Châu tiếp tế cho mặt trận. Khoảng 21.000 xe đạp thổ, 500 ngựa thổ và hàng ngàn xe trâu bò, xe cút kít… cũng được huy động phục vụ chiến dịch. Quân và dân ta đã tạo nên những kì tích trên mặt trận hậu cần phục vụ tiền tuyến, vượt ra khỏi mọi tính toán và dự kiến của kẻ thù khi chúng chấp nhận giao chiến với chủ lực của ta tại mặt trận Điện Biên Phủ.

Lực lượng cho lực ta tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ có các Đại đoàn 308, 312, 316 (thiếu 1 trung đoàn), Trung đoàn 57 (thuộc Đại đoàn 304); tất cả gồm 9 trung đoàn bộ binh và Đại đoàn 351 với một trung đoàn lựu pháo 105, một trung đoàn sơn pháo và súng cối, một trung đoàn pháo cao xạ và bốn tiểu đoàn công binh. Tổng số quân chủ lực của ta ở hoả tuyến có khoảng hơn 40.000; nếu tính cả tuyến hai là 55.000 người. Như vậy so với địch, ta có ưu thế hơn, nhưng không lớn.

Sau khi hạ quyết tâm tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, cùng với công việc chuẩn bị, một vấn đề hết sức quan trọng được đặt ra là đánh như thế nào. Đó là vấn đề thuộc về phương châm chỉ đạo chiến dịch.

Thời gian đầu, căn cứ vào thực tế quân địch mới nhảy dù xuống, lực lượng của địch chưa được tăng cường, bố trí của chúng còn sơ hở, trận địa phòng ngự chưa được củng cố, còn mang tính dã chiến, ta chủ trương đánh nhanh giải quyết nhanh.

Đánh nhanh giải quyết nhanh có nhiều cái lợi: Quân ta đang sung sức, cuộc chiến đấu không kéo dài nên ít tiêu hao, mỏi mệt; vấn đề tiếp tế lương thực, đạn dược có thể đảm bảo chắc chắn, không gặp trở ngại lớn.

Tuy nhiên, “đánh nhanh giải quyết nhanh có một điều bất lợi rất lớn là quân ta, mặc dấu đã được chuẩn bị về tư tưởng và chiến thuật để đánh tập đoàn cứ điểm, nhưng chưa có kinh nghiệm thực tế, lần này là lần đầu đánh tập đoàn cứ điểm, lại gặp một tập đoàn cứ điểm mạnh”. Điều đó có nghĩa là không bảo đảm chắc thắng. Bởi vậy, trong khi tiến hành công tác chuẩn bị, Bộ chỉ huy Mặt trận tiếp tục theo dõi tình hình địch và kiểm tra lại khả năng của ta.

Sau khi phát hiện lực lượng địch đã được tăng cường (16.200 tên), công sự của chúng đã được củng cố vững chắc, ta kiên quyết chuyển sang phương châm đánh chắc tiến chắc.

Chiều 25-12-1953, toàn bộ lực lượng của ta được lệnh rút ra khỏi trận địa, trở về nơi tập kết; các đơn vị pháo binh trước đây đã được lệnh kéo vào, lúc này được lệnh kéo ra. Để yểm trợ cho cuộc thu quân tạm thời, Đại đoàn 308 được lệnh phối hợp cùng Quân giải phóng Pa thét Lào mở cuộc tiến công về hướng Luông Phabăng, vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa thu. hút hầu hết không quân của địch về hướng đó. Một công cuộc chuẩn bị mới với một khối lượng công tác tham mưu, chính trị và hậu cần rất lớn lại được triển khai.

Theo phương châm đánh chắc tiến chắc, chiến dịch Điện Biên Phủ sẽ diễn ra trong thời gian dài, bao gồm nhiều trận đánh, mỗi trận tiêu diệt một hoặc nhiều cứ điểm; đánh từ ngoài vào trong, bao vây, chia cắt, triệt nguồn tiếp tế, tiếp viện của địch, tiến tới tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm.

Tiến hành chiến dịch theo phương châm đánh chắc tiến chắc đương nhiên chúng ta sẽ gặp nhiều có khăn, trở ngại mới. Chiến dịch càng kéo dài, địch càng tăng cường công sự, lại có thể đưa thêm viện binh; bộ đội ta có thể bị tiêu hao, mỏi mệt và khó khăn lớn nhất là về cung cấp, tiếp tế. Nhưng đánh chắc tiến chắc, quân ta sẽ tạo ra được ưu thế về binh lực và hoả lực trong từng trận đánh, lại hợp với trình độ của bộ đội ta lúc đó. Theo phương châm này, chúng ta giữ được chủ động hoàn toàn, đồng thời có thể khoét sâu nhược điểm lớn nhất của dịch là vấn đề tiếp tế vận tải. Như vậy, đánh chắc tiến chắc là bảo đảm chắc thắng, một nguyên tắc hàng đầu của chiến dịch.

Ngày 11-3-1954, trong lúc toàn mặt trận đang khẩn trương hoàn tất công việc chuẩn bị để kịp giờ nổ súng theo quy định, thì nhận được thư động viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

“Các chú sắp ra mặt trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to tớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang. Các chú vừa được chỉnh quân chính trị, chỉnh huấn quân sự và đã thu được nhiều thắng lợi về tư tưởng và chiến thuật, kĩ thuật. Nhiều đơn vị đã đánh thắng trên các mặt trận. Bác tin rằng. các chú sẽ phát lệ thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới. Bác chờ các chú báo cáo thành tích để thưởng những đơn vị và cá nhân xuất sắc nhất.

Chúc các chú thắng to. Bác hôn các chú”

Bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phổ biến tới cán bộ, chiến sĩ và anh chị em thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến, tạo nên không khí phấn khởi, thi đua lập công trên khắp các trận địa.Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra theo ba đợt:

– Đợt 1 từ 13 đến 17-3-1954, quân ta tiến công tiêu diệt các cứ điểm Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo. Chỉ trong gần 5 ngày, với hai trận đánh lớn then chốt, quân ta đã đập tan hệ thống phòng ngự của địch trên hướng Bắc và Đông Bắc, xoá sổ phân khu Bắc và một bộ phận của phân khu Trung tâm, tiêu diệt gọn hai tiểu đoàn tinh nhuệ vào bậc nhất của địch, làm tan rã một tiểu đoàn khác, mở cửa vào phân khu Trung tâm, tạo điều kiện cho chiến dịch tiếp tục phát triển.

Sau chiến thắng đợt 1, theo chủ trương của Đảng uỷ và Bộ chỉ huy mặt trận, bộ đội ta nhanh chóng tiếp cận bao vây, chia cắt quân địch bằng hệ thống giao thông hào; đồng thời tiếp tục khống chế sân bay, tích cực tiêu diệt và tiêu hao sinh lực địch. Mặc dù bị địch tìm mọi cách ngăn chặn, nhưng các đường hào của quân ta vẫn ngày càng được nối dài, toả ra bao vây trận địa địch. Pie Lănggle, một sĩ quan nhà nghề của thực dân Pháp và là một trong những sĩ quan đầu tiên nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, đã phải thừa nhận: “Không ai có thể ngờ rằng trong 50 ngày bộ binh Việt Minh lại đào được tới 400 khi hào giao thông ở lớp ruộng của Điện Biên Phủ. Và Bộ chỉ huy quân ta đã khám phá được rằng lưỡi xẻng và lưỡi cuốc của họ cũng là những vũ khí mạnh mẽ như xe tăng và máy bay”

Sau 10 ngày phấn đấu đầy hi sinh gian khổ, công cuộc xây dựng trận địa tiến công và bao vây mới của quân ta đã cơ bản hoàn thành, với hàng vạn hầm hố và trên 100 km đường hào bao kín trận địa trung tâm của đối phương. Nhờ có hệ thống hầm, hào đó mà “ta có điều kiện hạn chế viện binh của địch, làm khó khăn sự tiếp tế của chúng, nhất là phát huy được tất cả các cỡ hoả lực từ súng cối trở lên để uy hiếp tung thâm của địch… làm cho các cuộc oanh tạc dữ dội của địch gần như vô hiệu quả…”; “đồng thời thực hiện được việc thắt chặt vòng vây và tạo điều kiện để tiếp cận và tiến công quân địch”.

– Đợt 2, từ 30-3 đến 26-4-1954, quân ta đồng loạt nổ súng tiến công các cao điểm phía đông phân khu Trung tâm. Chiều ngày 30-3, pháo binh ta dồn dập nhả đạn vào sở chỉ huy của Đờ Cátxtơri cùng các điểm cao C1, D1, E1, các trận địa pháo và khu vực quân cơ động Mường Thanh, Hồng Cúm. Địch hoang mang, không kịp trở tay đối phó do bị bất ngờ.

Tại khu đổi C1, cuộc tiến công của quân ta diễn ra khá nhanh gọn. Chỉ trong vòng 45 phút, quân ta chiếm lĩnh toàn bộ C1 và tiếp tục phát triển sang cứ điểm C2. Từ ngày 9-4, sau khi tăng cường lực lượng, địch tổ chức phản công chiếm lại đồi C1 để cải thiện thế đứng chân tại khu đông trận địa trung tâm. Hai bên ta và địch giành nhau từng tấc đất, từng đoạn hào; đến cuối tháng 4, mỗi bên chiếm một nửa quả đồi.

Tại khu vực đồi E, sau hơn một giờ chiến đấu, quân ta hoàn toàn làm chủ mục tiêu. Tại khu vực đồi D1, trận tiến công của ta diễn ra cũng khá thuận lợi, nhanh chóng tiêu diệt cứ điểm của địch. Thừa thắng, quân ta phát triển tiến công sang cứ điểm D2 và các ngọn đồi phía trong.

Tại khu vực đồi A1, địch có một hầm ngầm cố thủ. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt ngay từ đầu. Hai bên giành nhau từng ngách hào, từng lô cất. Thế trận giằng co ở khu vực này kéo dài cho đến ngày 4- 4, mỗi bên chỉ giữ được một nửa cứ điểm: Ta nửa phần phía đông, địch nửa phần phía tây. Sau đó, quân ta tiếp tục củng cố, giữ vững trận địa và cuộc đọ sức giữa hai bên diễn ra quyết liệt suốt tháng 4 1954. Để chuẩn bị cho cuộc tiến công mới, quân ta đã hoàn thành một đường ngầm dài gần 50 mét tiến sát tới hầm ngầm của địch ở đồi A1 và đặt vào đó một khối bộc phá gần một tấn thuốc nổ TNT.

Trong thời gian mở đợt tấn công thứ hai, quân ta vừa dùng lực lượng nhỏ vậy ép đánh lấn dưới mặt đất, vừa bắn máy bay, triệt nguồn tiếp tế, tiếp viện của địch. Bộ đội cao xạ cùng với các đơn vị súng máy phòng không của các đại đoàn bộ binh tạo thành một lưới lửa khống chế bầu trời Điện Biên Phủ trong tầm cao từ 3 km trở xuống. Máy bay địch phải thả dù từ độ cao trên 3 km, nên một phần ba số dù rơi vào khu vực trận địa của ta; trong đó có khá nhiều đạn dược các loại cùng nhiều lượng thực, thực phẩm, thuốc men. Quân và dân ta ngày càng thêm phấn chấn, tích cực khắc phục khó khăn về tiếp tế, nâng cao quyết tâm giành thắng lợi.

Cho đến cuối tháng 4-1954, vòng vây của quân ta xung quanh Mường Thanh, Hồng Cúm đã siết chặt. Mọi việc chuẩn bị cho đợt tiến công thứ ba cơ bản hoàn thành. Binh lính địch thực sự lâm vào tình trạng hết sức nguy khốn. Phạm vi chiếm đóng của chúng chỉ còn rất hẹp; lương thực, thực phẩm, đạn dược cạn dần. Những cơn mưa đầu mùa trút xuống khiến các chiến hào của địch bị ngập trong nước.. Binh lính Pháp sống chui rúc, ngoi ngóp trong bùn lầy, dưới bom đạn, mưa gió dầm dể suốt ngày đêm đã nhanh chóng tiêu hao thể lực và suy sụp tinh thần chiến đấu. –

Đứng trước nguy cơ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có thể bị tiêu diệt, Chính phủ Pháp ngày thêm bối rối và Mĩ cũng lo ngại. Ngoài những khoản viện trợ lớn, Bộ Quốc phòng Mĩ còn đề ra một kế hoạch hành binh mang tên Vô tua (Vautour – Diều hâu), dự kiến sẽ sử dụng 80 – 90 máy bay B.29 (loại máy bay chiến lược lớn nhất của Mĩ lúc bấy giờ) từ căn cứ Clác Phin được 150 máy bay chiến đấu của Hạm đội 7 hộ tống, đến ném bom “nghiền nát” các đơn vị Việt Minh đang bao vây Điện Biên Phủ. Để chuẩn bị cho kế hoạch này, từ thượng tuần tháng 4-1954, hai tuần dương hạm của Hạm đội 7 đã tiến vào vịnh Bắc Bộ. Trung tuần tháng 4, một viên tướng chỉ huy không quân Mĩ tại Đông Nam Á đến Sài Gòn nghiên cứu tình hình. Một số sĩ quan Mĩ cũng đáp máy bay lên trinh sát thực địa ở Điện Biên Phủ để nghiên cứu các mặt kĩ thuật cho cuộc hành quân.

– Đợt 3, từ 1-5-1954 đến 7-5-1954, quân ta đồng loạt tiến công khu trung tâm Mường Thanh và phân khu Nam, lần lượt tiêu diệt các căn cứ đề kháng còn lại của địch. Trong đêm đầu tiên của đợi tiến công, quân ta đã tiêu diệt các cứ điểm C1, 505, 505 A ở phía đông và 31 A ở phía tây. Ngày 2-5, Nava vội vã đáp máy bay ra Hà Nội triệu tập một cuộc họp để bàn cách cứu vãn tình thế. Sau khi cân nhắc mọi giải pháp, Nava quyết định cho quân lính ở Điện Biên Phủ rút chạy sang Lào để tránh nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Nhưng kế hoạch này chưa kịp triển khai thực hiện thì đã bị tai hoạ do quân ta giáng xuống.

Chiều ngày 6-5, các loại pháo cối của ta cùng 12 dàn hoả tiễn bắn dữ dội vào các cứ điểm, làm cho địch hết sức khiếp sợ. Sau đợi pháo kích kéo dài 45 phút, bộ binh ta bắt đầu tiến công. Vào lúc 20 giờ 30 phút ngày 6-5, ta cho nổ quả bộc phá đặt trong lòng đồi A1. Đó là hiệu lệnh tổng công kích của quân ta. Từ các hướng, quân ta tràn vào đánh chiếm các vị trí còn lại ở phân khu Trung tâm. Thế của ta như nước vỡ bờ; bộ đội ta đánh tới đâu, cờ trắng của địch xuất hiện tới đó.

Vào lúc 17 giờ 30 phút ngày 7-5, quân ta bắt sống Tướng Đờ Cátxtơri cùng toàn thể Bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ở các cứ điểm còn lại xung quanh hầm Đờ Cátxtơn, binh lính địch lũ lượt kéo cờ trắng ra hàng.

Tại phân khu Nam, bộ đội ta dùng loa kêu gọi địch đầu hàng, nhưng lợi dụng lúc đêm tối, chúng rút chạy. Bộ đội ta truy kích, đến 24 giờ ngày 7-5, toàn bộ quân địch ở phân khu Nam bị tiêu diệt và bắt gọn.

Cùng với chiến dịch Điện Biên Phủ, trên chiến trường toàn quốc, quân và dân ta cũng đẩy mạnh các hoạt động phối hợp.

Tại đồng bằng Bắc Bộ, từ đầu tháng 3-1954, bộ đội ta tập kích sân bay Gia Lâm, đốt cháy một kho xăng, phá huỷ 18 máy bay. Ba ngày sau đó, dân quân, du kích Kiến An tập kích sân bay Cát Bi, phá huỷ 59 máy bay cùng một khối lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến tranh. Trong những ngày tiếp theo, quân và dân khu Tả ngạn sông Hồng mở nhiều đợt tổng công kích, làm tê liệt Đường số 5 – được coi là yết hầu của địch – cùng các tuyến đường chiến lược khác, san phẳng và bức địch rút nhiều vị trí. Ở phía Hữu ngạn, các đại đoàn chủ lực cùng với bộ đội địa phương và dân quân, du kích vừa tiến công địch, vừa đẩy mạnh công tác binh vận làm cho hàng vạn lính ngụy bỏ ngũ, hàng loạt tổ chức tế ngụy tan rã. Trong các vùng tạm bị địch chiếm, phong trào đấu tranh chính trị cũng phát triển với khí thế mạnh mẽ. Nhân dân ta nổi dậy phá trại tập trung, trở về quê cũ làm ăn.

Tại Trung Bộ, hưởng ứng Tuần lễ đánh mạnh do Liên khu uỷ và Bộ Tư lệnh Liên khu IV phát động, trong những ngày cuối tháng 3-1954, quân và dân Bình – Trị – Thiên liên tiếp tập kích hàng loạt vị trí địch, tổ chức nhiều trận phục kích trên đoạn đường xe lửa và Đường số 1 từ đèo Hải Vân ra Quảng Trị, lật nhào nhiều đoàn tàu quân sự, phá huỷ hàng chục xe vận tải …

Ở miền Nam Trung Bộ, thực hiện đợi hai chiến địch giải phóng Tây Nguyên và đánh trả cuộc hành quân những lần thứ hai”, quân ta tập trung lực lượng phát triển vào Nam Tây Nguyên, đánh mạnh trên các tuyến đường 19, 14 và 7; đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch. Cuộc tiến công đầy tham vọng của thực dân Pháp trên chiến trường miền Nam mà trung tâm điểm là cuộc hành quân Átlăng hoàn toàn thất bại.

Tại Nam Bộ, cùng với các cuộc tiến công quân sự rộng khắp, tiêu diệt hàng trăm đồn bốt, tháp canh, công tác địch vận cũng đạt kết quả lớn. Hàng vạn binh lính ngụy bỏ đồn bốt trở về với gia đình. Ngụy quân, ngụy quyền tan rã ở nhiều nơi. Khu du kích và căn cứ du kích được mở rộng, nối liền từ đông sang tây, tạo nên thế mới cho cuộc đấu tranh.

Những hoạt động tiến công quân sự, chính trị của quân và dân ta trên khắp các chiến trường không những tiêu diệt sinh lực địch, làm thất bại âm mưu bình định của địch, mà còn có tác dụng kiềm chế một bộ phận quan trọng quân cơ động của chúng, không cho chúng điều quân tiếp viện cho chiến trường Điện Biên Phủ. Trong cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 128.200 tên địch, thu 19.000 súng các loại, bắn rơi và phá huỷ 162 máy bay, giải phóng nhiều vùng rộng lớn có tầm quan trọng về chiến lược. Riêng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, sau 55 ngày đêm chiến đấu ngoan cường, các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch trên chiến trường Đông Dương; tiêu diệt và bắt 16.200 tên, gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, súng cối, 10 đại đội ngụy vừa bổ sung và các đơn vị công binh, vận tải, xe tăng. Tổng số sĩ quan, hạ sĩ quan địch bị diệt và bị bắt là 1.766 tên; trong đó có 1 thiếu tướng. 16 đại tá, trung tá. Tổng số máy bay bị bắn rơi và phá huỷ là 62 chiếc. Toàn bộ vũ khí, kho tàng, cơ sở vật chất kĩ thuật của địch ở Điện Biên Phủ đều lọt vào tay ta. Chiến thắng Đông – Xuân 1953 – 1954, đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến thắng lớn nhất của quân và dân ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó cũng là một trong những chiến công rực rỡ nhất của dân tộc ta trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

Chiến thắng Điện Biên Phủ “đã được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa ở thế kỉ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lại đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”. Với quốc tế chiến thắng Điện Biên Phủ được coi là “tiếng chuông báo tử của chủ nghĩa thực dân”, là “tiếng nói vút ngang tai bọn đế quốc quốc tế”, một “niềm hi vọng to lớn và tươi sáng của loài người”, “là lời kêu gọi các dân tộc bị trị tiến lên xung phong chiếm lĩnh các pháo đài cuối cùng của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc trên thế giới…”

Chiến thắng Điện Biên Phủ là một đòn giáng quyết định, đập tan hoàn toàn Kế hoạch quân sự Nava, đè bẹp ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh ở Đông Dương, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta ở Hội nghị Giơnevơ (Genève) giành thắng lợi.

(Lytuong.net – Nguồn tài liệu: Nguyễn Xuân Minh, Lịch sử Việt Nam 1945-2000, NXB Giáo dục)

5/5 - (1 bình chọn)

Có thể bạn quan tâm

123123

Lytuong.net – Contact: [email protected]